Viên Mai (1716-1798), tự Tử Tài, hiệu Giản Trai, người đời thường
gọi ông là Tùy Viên tiên sinh, người đất Tiền Đường, Triết Giang. Đỗ tiến sĩ
vào năm Càn Long thứ 4 (1739), từng làm tri huyện nhiều năm. Năm Càn Long thứ 14
ông cáo bệnh từ quan về ở Tùy Viên tại Tiểu Thương Sơn, tỉnh Giang Ninh, ông
làm minh chủ tao đàn trong những năm Càn Long, Gia Khánh. Lý luận thi ca của
Viên Mai tiêu biểu cho xu hướng đổi mới của thi ca đời Thanh. Ông đề cao thuyết
linh tính, nhấn mạnh tính tình cần chân thực, bút pháp cần linh hoạt, về tư
tưởng thì không bị trói buộc bởi tư tưởng chính thống và quan niệm đạo đức
phong kiến, về hình thức nghệ thuật cũng không bị hạn chế về cách luật cố hữu
mà cổ vũ tự do sáng tạo, khuyến khích bộc lộ cá tính, tạo lập được phong cách
riêng. Ông có sức ảnh hưởng lớn, có vị trí quan trọng trên thi đàn đời Thanh.
Thuyết tính linh xuất phát từ những điều kiện chủ quan trong sáng
tác thi ca, nó nhấn mạnh ba yếu tố ba phương diện của chủ thể sáng tạo cần phải
có là: chân tình, cá tính và thi tài.
Cấu tứ trong sáng tác phải linh cảm, nghệ thuật biểu hiện phải mang tính riêng
biệt độc đáo, tự nhiên; nội dung tác phẩm phải bộc lộ tình cảm chân thật, chủ
yếu biểu hiện cá tính, hình tượng nghệ thuật ngụ tình phải linh họat, mới mẻ,
sinh động; thi ca nên lấy sự cảm phát lòng người khiến người đọc cảm nhận được
cái đẹp, tạo mỹ cảm làm chức năng chủ yếu. Ngược lại, ông phản đối quan niệm
hình thức khéo léo làm trói buộc tính linh của “thi giáo” và tác phong bắt
chước thời Đường Tống, ông cũng phản đối lối thơ lấy học vấn để thay thế tính
linh, và dùng nhiều điển cố trong thơ, nhưng đồng thời ông không hề loại bỏ vấn
đề học vấn và kỹ xảo trong sáng tác thi ca.
Viên Mai cho rằng, chân tình là điều kiện tiên quyết để thi nhân
sáng tác. Vì thế ông phản đối việc “ngâm bừa” không có tình cảm chân thật. Viên
Mai hấp thu được “thuyết đồng tâm” của Lý Chí – người làm thơ phải
giữ được tấm lòng trong trắng, chân thực của trẻ thơ. Lý Chí cực lực phản đối,
yêu cầu vứt bỏ cái tệ hại của cách nhìn đạo lí, tìm lại “cái bản tâm ban đầu”.
Tư tưởng này phản ánh yêu cầu, nguyện vọng của giai tầng thị dân mới nổi lên
bấy giờ, mở ra nhận thức của người ta đối với tình của nhân tính., tức Lý Chí
muốn nhấn mạnh, nhà thơ phải có đủ những tình cảm thuần khiết, chân thật. Thi
nhân phải có sự xúc động tình cảm mới có thể sản sinh ra những rung động trong
sáng tác văn chương. Viên Mai phản đối việc xem thơ là công cụ chính trị, là
“liên quan đến nhân luân thường ngày” (quan hệ nhân luân nhật dụng), liên quan
đến “cương thường danh giáo” (cương thường danh giáo).
Thuyết tính linh đã xem trọng vấn đề tình cảm chân thật, tự nhiên
cũng xem trọng vấn đề cá tính. Viên Mai luôn nhấn mạnh, nhà thơ phải có cá tính
mới mẻ, nghệ thuật biểu hiện phải mang tính độc đáo sáng tạo. Đây là nội dung
thứ hai của thuyết tính linh. Điều này chứng tỏ, Viên Mai chịu ảnh hưởng của
cách nói “Độc trữ tính linh, bất câu cách tháo” (Tự Tiểu Tu thi) của Viên Trung Lang thời Minh. Viên
Mai cho rằng “làm thơ không thể không có cái tôi” (tác thi bất khả dĩ vô ngã),
“cái tôi” tức là cá tính; lại nói: “Phàm kẻ làm thơ ai có thân phận nấy, nên
mỗi người có nỗi lòng, suy nghĩ riêng” (phàm tác thi giả các hữu thân phận,
diệc các hữu tâm não), vì vậy thơ mỗi người có mỗi mặt khác nhau, nên sự biểu
hiện cảm thụ và nhận thức thẩm mỹ cũng khác. Đồng thời, ông nhấn mạnh, cá tính
của nhà thơ phải được tự do phát huy, mà không bị gò bó: “Tôi làm thơ vốn không thích dùng điệp, vần, họa vần hoặc dùng vần
người xưa, vì cho rằng, làm thơ cốt tả tính tình, thích như thế nào thì làm như
vậy, trong một vần có trăm ngàn chữ, mặc ý mình chọn dùng, thế mà có lúc dùng
xong rồi còn không vưa ý mà phải thay đổi lại, thì sao lại được gò bó mà dùng
trong một vài vần, đã gò bó thì không thể không nhồi nhét, đã nhồi nhét thì còn
đâu nữa là tính tình”. Nhà thơ nên có cá tính, nghệ thuật biểu hiện nên có
“cái tôi”, tức là có tính sáng tạo độc đáo.
Viên Mai cho rằng, ngoài chân tình và cá tính, nhà thơ cũng cần có
điều kiện chủ quan là thi tài, không có tài thì khó biểu đạt tính linh, vì thế,
thi tài là nhân tố thứ ba không thể thiếu trong thuyết tính linh. Ông nhấn
mạnh, thi nhân muốn sáng tác phải có đủ tài năng đặc thù, vì thế nên mới có sự
phân chia “bút tính linh” và “bút tính bổn”, người có “tính linh” hoặc có “linh
tính” thì ắt có thi tài. Ông rất đề cao tài: “Tài năng, học vấn, kiến thức phải gồm đủ ba, mà tài thì ở hàng đầu”,
có tài thì có thể “dùng điển tịch, vận tâm linh”. Viên Mai rất coi trọng nhân
tố “thiên bẩm” của thi tài, nhân tố trời phú bẩm đương nhiên không thể mạt sát,
nhưng hoàn toàn không phải là “chỉ dựa vào thiên bẩm”, mà điều kiện xã hội, sự
nỗ lực trong tương lai cũng là điều rất quan trọng. Viên Mai không coi nhẹ việc
học tập rèn luyện cho tương lai, ông cho rằng: “Thơ tuy kì vĩ mà không rèn luyện tinh tế thì cũng là tài thô kệch, thơ
tuy cao cả mà không mở mang khai thác thì khuôn khổ cũng chật hẹp. Người có
tài, khi phóng ra thì đầy sáu cõi khi thu lại thì trong gang tấc, gươm lớn sát
trời, kim vàng thêu thùa chỉ là một vậy”.
Ông còn cho rằng: “Thơ tuy là một
nghề mọn nhưng cũng phải học tập từ khi thơ ấu, bắt đầu học phải trên từ Hán,
Ngụy, Lục triều, dưới đến Tam Đường, Lưỡng Tống tự nhiên nguồn dòng nắm được,
mạch lạc phân minh”.
Viên Mai cho rằng, người có thi tài, trong quá trình cấu tứ sáng
tác dễ sản sinh “linh cơ” và “cảm hứng”, tức là hiện tượng linh cảm. đối với
linh cảm. Vấn đề cấu tứ trong sáng tác của nhà thơ nằm trong trạng thái lúc
linh cảm chợt xảy đến, nên việc bộc lộ tính linh luôn tỏ ra như là một loại rất
cần sự công phu nhưng “tự nhiên thiên thành” như “thiên lại”. Viên Mai đặc biệt
suy tôn vẻ đẹp mang âm vận tự nhiên, như ngọc vốn có không cần mài giũa, “thiên
lại bổn thiên nhiên, còn thơ của văn nhân thì có thể “có được từ sự khéo léo”
nhưng cũng không nên để lộ giấu vết gọt giũa, phải uyển chuyển như tiếng sáo
trời và đương nhiên phải có tính linh như đã nói ở trước. Người có tính linh,
có thi tài thì thơ ắt có sinh khí, nghĩa là nhà thơ bằng sự cảm thụ chân thật
để miêu tả những hình tượng nghệ thuật sinh động, linh hoạt, mới mẻ, trong đó
lại ngụ ý ngụ tình và cá tính của nhà thơ nhờ đó mà khiến người đọc thấy thú vị
vô cùng. Thi ca là nghệ thuật của ngôn từ, Viên Mai yêu cầu “Tất cả thơ văn,
chữ chữ phải đứng ở trên trang giấy chứ không được nằm trên trang giấy”, và như
vậy mới “sống” mới sinh động, truyền thần được. Đối với thủ pháp miêu tả thì
ông tán thành lối “Nhất vị bạch miêu thần hoạt hiện” (miêu tả trong sáng hứng
thú thì cái thần sống động) thì
có thể biểu đạt “một mảng tình cảm linh diệu” (nhất phiến tính linh). Bởi do đề
xướng chủ trương thơ phải có “sinh khí” nên đối với lối “nhồi nhét sách điển”
(điền thư tắc điển) khiến cho tính tình “mất hết” tạo thành “trang giấy đầy mùi
chết chóc” (mãn chỉ tử khí) ông cật lực phản đối, và cho rằng việc dùng điển
cũng “không để lộ dấu vết” thì mới có sinh khí.
Viên Mai phê phán các thuyết “thần vận” của Vương Sĩ Chân, “cách
điệu” của Thẩm Đức Tiềm, “cơ lý” của Ông Phương Cương. Viên Mai phê phán thói
bắt chước, trộm cắp tiền nhân, khư khư giữ lấy những danh tiếng cũ cùng với
những phép thanh điệu, phổ thức ngày xưa: “Đời
nay vẫn còn khăng khăng ôm lấy sách Nhạc phủ giải đề, cho là một bản sách bí
ẩn, rồi mô phỏng từng chữ từng câu, chẳng khác gì tự dưng vẽ ra ma quỷ chẳng có
gì là bằng cứ, nhưng vẫn đặt lên đầu quyển để phô trương mặt mũi cũng ví như
bọn người tự ý khoe khoang dòng dõi nêu lên những chức tước rất lớn của cha ông
mình mà không biết rằng những cái không liên quan gì đến mình cả”. Ông còn cho rằng: “Những kẻ bám lấy Hàn Dũ, Đổ Phủ để muốn hơn người nhưng chân tay thô
dụng thì là loại ôm chân nhà quyền quý…” Nhà thơ nên dựa vào cá tính, cảm
thụ thẩm mỹ, vận dụng cách cấu tứ nghệ thuật và thủ pháp biểu hiện đặc biệt của
mình để tự do bộc lộ tính linh. Cá tính và sự sáng tạo trong nghệ thuật biểu
hiện là nhân tố quan trọng hình thành nên phong cách của nhà thơ.
Ông phản đối tư tưởng cổ và nguyên tắc ôn nhu đôn hậu, đề cao sự
đa dạng hóa đề tài, phong cách thơ ca. Ông phê phán Thẩm Đức Tiềm và cũng như
phê phán chung quan niệm “sùng cổ ti kim” đang thịnh hành đương thời. Viên Mai
còn đề cao những sáng tác “ngôn tình”, thể hiện quan điểm tiến bộ chống lại lễ
giáo phong kiến, biểu thị quan niệm của mình khác với quan niệm tiết liệt phong
kiến có tính chất áp bức phụ nữ của Nho giáo.
Điểm nổi bật trong lí luận về thơ của Viên Mai là thuyết tính
linh, nội hàm thuyết tính linh của ông mang một loạt những nhân tố mỹ học về
thi ca như chủ quan sáng tác của thi nhân, tính đặc sắc của hình tượng nghệ
thuật và nội dung biểu hiện của thi ca, quy luật cấu tứ nghệ thuật, đặc điểm
nghệ thuật biểu hiện và chức năng thẩm mỹ của thi ca, mà phương diện chủ yếu
trong đó vẫn là phải phù hợp với thực tế sáng tác. Trong quan niệm về thơ ca
ông còn phê phán các thuyết “thần vận”, “cách điệu”, “cơ lý”, phản đối tư tưởng
cổ và nguyên tắc ôn nhu đôn hậu, từ đó ông đề cao sự đa dạng hóa về đề tài và
tạo nên dấu ấn, phong cách riêng cho thơ ca.
Gambling in Connecticut - DrmCD
Trả lờiXóaLegal Gambling in Connecticut - Get the latest information on 정읍 출장안마 gambling in 태백 출장마사지 Connecticut in 제천 출장샵 legal Gambling in Connecticut 광명 출장마사지 and 대전광역 출장안마 Maine. Find the law you Licenses: CT/CAD