Nguyễn
Ngọc Tư là một nhà văn trẻ chỉ mới xuất hiện trong thời gian gần đây, nhưng tác
phẩm của chị đã có sức ảnh hưởng và đã gây tiếng vang trong nền văn học. Truyện
của Nguyễn Ngọc Tư thật giản dị và đậm chất Nam Bộ. Mỗi truyện ngắn của chị là
một bức tranh vẽ về cuộc đời, về thân phận con người trong cuộc sống. Có thể
nói với Cánh đồng bất tận,
Nguyễn Ngọc Tư đã trở thành một hiện tượng nổi bật trong đời sống văn học
sau đổi mới, nhất là khoảng 10 năm đầu của thế kỷ XXI. Vừa ra mắt bạn đọc, lập
tức nó trở thành đề tài nóng bỏng của nhiều cuộc bút chiến, của rất nhiều cuộc
tranh luận với các ý kiến khác nhau. Song xét một cách toàn diện, Cánh đồng
bất tận ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với nền văn xuôi đương đại. Đến
với Cánh đồng bất tận độc giả bắt gặp
nhiều mảnh đời cơ cực, lầm than, tảo tần sớm hôm mà vẫn không thoát khỏi cái
nghèo. Và cũng chính cái nghèo luôn đeo bám dẫn đến những bi kịch đau thương .
Đọc
Cánh đồng bất tận, độc giả không khỏi
ngậm ngùi cho những số phận con người bị cái nghèo đeo bám. Cái nghèo là nguyên
nhân sâu xa dẫn đến những bi kịch không lối thoát. Gia đình nhân vật Út Vũ là
một mô hình thu nhỏ cho những bi kịch của thế lực đồng tiền. Út vũ- là mẫu
người đàn ông chất phát, làm lụng vất vả để chăm lo vợ con, với ý nghĩ giản
đơn: “Chỉ cần mình hết lòng yêu thương,
gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng”. Ông chăm lo
cho gia đình từ những việc nặng nhọc đến những việc vô cùng nhỏ nhặt: “Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra
bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt
một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn”. Từ chi tiết ấy thể hiện
được tính cách của nhân vật này, một người luôn chăm chút cho tổ ấm. Thế nhưng,
cuộc đời nó vốn dĩ không giản đơn như cái suy nghĩ của ông, hết lòng yêu
thương, gánh hết sự nhọc nhằn chưa hẳn được đền đáp xứng đáng. Chính cái nghèo,
cái thiếu thốn mà ông đã mất vợ. Người vợ của ông đã không vượt qua được cám dỗ
của phù hoa. Ông đốt tất cả đồ đạc rồi bắt đầu một cuộc đời du mục, bi kịch của
ông bắt đầu từ đó. Ông trở nên lạnh lùng, vô cảm và muốn trả thù với những
người phụ nữ. Nuôi vịt chạy đồng là đời sống kinh tế của gia đình ông, thế
nhưng khi bầy vịt bị chôn sống ông lại dững dưng. Bởi vì: “Với nổi đau sâu hoắm sẳn trong lòng, thì những biến cố khác chẳng qua
là một vết xước ngoài da, nhằm nhò gì”. Không dừng lại ở thái độ thờ ơ, vô
cảm, ông còn lạnh lùng và tàn nhẫn, muốn trả thù đời bằng việc đến với những
người đàn bà gieo cho họ một tình cảm rồi rũ áo ra đi: “với những người đàn bà sau nầy, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho
vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc”. Ông dững dưng
như không có chuyện gì: “Nhạt nhẽo hơn cả
việc quan hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha tôi không còn một chút cảm xúc
nào, nét mặt ngập tràn những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng”.
Trong con mắt Điền: “Cha làm chuyện đó
thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái”, vô cảm và lạnh lùng, chẳng có tính
người. Với ai ông cũng có một sự tính toán: Sương đến với Út Vũ tưởng rằng cuộc
đời ông sẽ khác, sẽ trở về với hình ảnh một người cha ngày nào trong mắt của
Điền và Nương. Thế nhưng sau cuộc ái ân ông lại trả tiền xòng phẳng: “Tôi trả cho hồi hôm…rồi cha điềm nhiên phủi
đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt”. Ông
coi thường Sương là một con điếm, trong mắt ông việc quan hệ ái tình chỉ là
việc bán mua chứ chẳng phải là cho và nhận. Sương vì bảo vệ cho cuộc sống gia
đình ông mà đã hi sinh bản thân qua đêm cùng những tên cán bộ, đáp lại tấm chân
tình ấy là một cái nhìn miệt thị: “sao,
hồi tối vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? cứ để họ
nghĩ vậy…”. Bi kịch đồng tiền đã đưa Út Vũ trở thành một con người khác, từ
một người sống có lí tưởng, chăm chút gia đình bé nhỏ của mình trở thành một
con người lạnh lùng, vô cảm. Và cái giá của ông phải trả cho bi kịch của cuộc
đời mình là Điền đã ra đi không tin tức, những cuộc vui đùa ái ân của ông với
những người phụ nữ được báo ứng bằng việc tận mắt chứng kiến cảnh tượng con gái
mình bị cưỡng hiếp: “nó đè nghiến, giữ
cho mặt ông hướng về phía tôi. Và bọn chúng thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ
một tư thế đó, mắt cha tôi ầng ậc nước, tôi không hiểu là phèn hay máu nhoèn nhoẹt”.
Trong hoàn cảnh đau thương ấy, người mà Nương cầu cứu không phải là ông, Nương
gọi “Điền! Điền ơi!” . Còn gì đau đớn
hơn khi từ lúc nào hình ảnh người cha không còn là chỗ dựa thiêng liêng cho con
cái. Cái bi kịch của Út Vũ quá lớn, nó sinh ra từ những cám dỗ của thế lực đồng
tiền.
Đồng
tiền có sức mạnh vạn năng, nó tạo nên những bi kịch cho những ai quá khao khát
nó mà thực hiện những hành vi trái với luân thường đạo lí. Vợ của Út Vũ là điển
hình cho những bi kịch xuất phát từ sự cám dỗ của phù hoa. Chị ngao ngán và thở
dài với cái nghèo: “Má tôi thở dài khi
ghe cha ghé bến vì biết mai mốt cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước
trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi
lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng
kẹp lép. Thở dài khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo má ơi”. Chính
đồng tiền làm chị thay đổi, chị đánh đổi những xấp vải bằng cuộc ái ân với
người thương lái. Để rồi khi con mình phát hiện, chị tủi nhục và bỏ nhà ra đi.
Chính chị là người tạo nên bi kịch của gia đình Út Vũ. Chị đã gieo rắc vào con
mình những gì không đáng thấy, làm loang lỗ vết thương tinh thần cho những đứa
bé đang lớn lên. Chị đã làm cho Út Vũ trở nên hoang dại và vô cảm, làm tan nát
cả một gia đình tưởng chừng quá hạnh phúc này. Bi kịch của đồng tiền không tha
thứ bất ai muốn có nó bằng những hành động không chân chính, đó còn là bi kịch
của Sương. Vì kiếm tiền Sương sống bằng nghề buôn hương bán phấn: “Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu
đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu
hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài được một người đàn ông chơi trò giường chiếu,
suốt hai ngày hai đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xóa đói giảm
nghèo...”. Để rồi khi chị đến với Út Vũ, chị không thể nào xóa được vai trò
là một “con đĩ” trong mắt ông. Chị mủi lòng khi ông sòng phẳng trả tiền sau
cuộc ân ái, chị cay đắng: “mắc cười quá,
tới mấy con cá quỷ nầy còn chê chị. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô
phương”. Chị cảm động trước tấm chân tình của chị em Nương: “Thật cảm động khi bị đánh tả tơi bầm dập
vậy mà hai đứa nhỏ nầy lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng”. Dường như chị
được trở về với một con người hướng thiện, muốn sống một cuộc đời thật trong
sạch cùng với gia đình này, chị hy sinh để bảo vệ nguồn sống cho họ. Nhưng dù chị có làm gì vẫn không rột rữa được hình
hài một “con đĩ” trong mắt Út Vũ. Chị chua xót: “chị...làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mấy cưng buồn”.
Chị rớt nước mắt trước sự lạnh lùng của Út Vũ rồi chọn cách ra đi. Cuộc đời của
chị sẽ đi đâu? Về đâu? Khi người ta luôn nhìn chị với dáng hình một người không
đứng đắn. Đó là bi kịch của con người vì tiền mà đánh mất danh dự của bản thân,
để trả giá bằng cuộc đời luôn bị phỉ báng, xem thường.
Đọc
Cánh đồng bất tận, chắc hẳn ai cũng
không khỏi xót xa cho cuộc đời Điền và Nương, hai nhân vật là hệ quả của bi
kịch từ sức mạnh đồng tiền mà những đấng sinh thành gây ra cho chúng. Người mẹ
ra đi vì đồng tiền bỏ lại chúng khi còn quá nhỏ. Chúng ngỡ ngàng trước cuộc
sống rồi phải mạnh mẽ để thích nghi như những đứa trẻ mồ côi không có mẹ. Với
Điền kí ức về mẹ quá ít nó chẳng hiểu thương mẹ phải ra sao: “Người ta thương mẹ ra làm sao?. Mặt nó dãn ra,
khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thát lát…mà nó dành cho chị cũng
giống như người ta vẫn thường dành cho mẹ. và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát
được nằm gần, được dúi mũi mình vào da thịt người đó”. Còn với Nương: “tôi không dám nhớ tới má, bởi ngay khi nghĩ
đến má, lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má
tôi vừa đổi được”. Người mẹ ấy đã gây ra cho những đứa con mình một bi kịch
của sự thiếu vắng tình thương, còn gì đau lòng hơn khi con không dám nhớ tới
mẹ, kí ức dường như là một gì đó quá đau lòng với Nương. Đau lòng hơn khi càng
lớn Nương càng giống mẹ, nó đã gieo lên nỗi nhớ má trong lòng Điền và nỗi hận
thù trong lòng ba, tuổi của Nương đúng lẽ phải được học tập, vui đùa thế như
với Nương công việc quá là khó khăn khi phải thay đổi chính mình: “Những thói quen, những cái gì liên quan đến
má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài nầy. Tôi đành
để cha đánh mắng để ông bớt đau chút lòng”. Mọi thứ dường như quá sức mà
hằng ngày Nương phải cố gắng để thực hiện, Nương phải sống khác đi với chính
mình để ba đươc vui. Có lúc sự thiếu thốn tình thương của hai đứa trẻ này mà
độc giả không khỏi xót xa lòng: “phải chi
ông nầy là ông nội mình, thương đỡ chơi hen Hai?. Nghe câu đó tôi bổng thấy
mình nghèo rơi, nghèo rớt đến nỗi không có…ông nội để thương”. Chúng tập
sống lạnh lùng và vô cảm để không bị những trận đòn roi, chẳng dám yêu thương
ai vì sợ không nỡ chia lìa: “Sống đời mục
đồng, chúng tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi ngậm
ngùi, để lòng dững dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh
khác”. Không có mẹ, cha lại lạnh lùng, chúng tự học tất cả, dù mỗi bài học
đều có cái giá của nó. Để rồi như những cây hoang dại, chúng lớn lên bằng nghị
lực: “Nhìn bướm bay, nhìn mây tôi biết
ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở tuyến
kênh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán
xem có thể cầm vịt ở đâu bao nhiêu lâu thì hết thức ăn, đúng chóc”. Thiếu
vắng tình thương: “chị em tôi học cách
yêu thương đàn vịt hy vọng sẽ không bị đau như yêu thương một con người nào đó.
Nhiều khi nhìn thằng Điền dỏng tai coi mấy con vịt nói cái gì, tôi giật mình”.
Bi
kịch thiếu vắng tình thương đã làm Điền trở thành một cây hoang, vươn mình đứng
thẳng, nó đầy nghị lực. Thiếu vắng một vòng tay người mẹ để chăm chút, chỉ bảo
khi đến tuổi trưởng thành: “Điền chối bỏ
niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hãm bản băng trổi
dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù. Nó phản
kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm”. Và bi kịch hơn
khi Nương nhận ra rằng: “tôi cảm giác sự
đổ vỡ khi Điền theo đuổi chị, và chị thì chạy theo cha”. Khi Sương ra đi,
Điền đã chạy theo để kiếm tìm, liệu rồi Điền sẽ đi về đâu với tuổi đời còn quá
trẻ. Và rồi có phải chăng là những bi kịch lại ra đời. Với Nương bi kịch luôn
đeo bám nhân vật này, vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám khóc. Thiếu vắng tình
thương nó không biết phải xoay sở thế nào cho lần kinh nguyệt đầu tiên; “máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi thụp
xuống, bụm chỗ ấy lại. máu chảy từ từ qua kẽ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt,
chết dần”. cái kết của nhân vật này càng đáng thương hơn, bao nhiêu khổ
hạnh trên cỏi đời mà đấng sinh thành gây ra Nương phải gánh chịu. Nương bị hãm
hiếp trước mặt cha, thế nhưng bao nhiêu nghị lực mà Nương đã tạo ra cho mình
không đánh nhân vật này gục ngã, Nương nghĩ đến việc đặt tên cho những đứa con
nếu nàng có thai “đứa bé đó, nhất định nó
sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường…đứa bé không cha nhưng chắc
chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời vì được mẹ dạy,
là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Những câu nói ấy
của Nương chính là niềm tin và nghị lực, Nương không muốn con mình sẽ sống đời
mục đồng, nó sẽ có mẹ, nó sẽ được bù đắp những gì mà Nương thiếu thốn.
Với
Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã phác họa những bi kịch của con người với
cái nghèo đeo bám. Mỗi nhân vật đều có một bi kịch riêng, nhưng điểm chung là
trực tiếp và gián tiếp chịu sự ảnh hưởng của sức mạnh đồng tiền. Đọc tác phẩm,
độc giả không khỏi bùi ngùi, xúc động. Nguyễn Ngọc Tư đã đưa lối khai thác mới
cho đề tài quen thuộc, bi kịch của con người dưới ngòi bút của chị hiện lên với
tất cả những gì khổ đau nhất. chị xứng đáng được xem là “hiện tượng” trong văn
học sau đổi mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét