Hình ảnh người phụ nữ là
hình ảnh thành công nhất trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Các tác phẩm văn học
trong giai đoạn này là những bức tranh tái hiện số phận khổ đau, bất hạnh của
người phụ nữ Việt Nam
trong xã hội phong kiến. Trong đó chinh Phụ
Ngâm là một tác phẩm nổi bật, đó là khúc ngâm của người chinh phụ, là lời
thở than ai oán của một người phụ nữ có chồng ra chiến trường. Tác phẩm không
chỉ có ý nghĩa nội dung phản chiến hết sức sâu sắc mà còn có những nét nghệ
thuật hết sức độc đáo về thời gian và không gian- một trong những cảm thức thế
giới của con người trung đại.
Cảm thức về thời gian của
con người trung đại đó là thời gian vũ trụ mang tính chất tuần hoàn, luân hồi.
Tương ưng với thời gian vũ trụ là thời gian thực tại, nếu thời gian vũ trụ có
tính chất tuần hoàn thì thời gian thực tại của đời người mang tính chất tuyến
tính. Thời gian tuyến tính gắn liền với cảm thức về sự trôi chảy, ngắn ngủi của
đời người. Trong Chinh Phụ Ngâm thời gian tuần hoàn xuất hiện nhằm
tăng cường cảm giác về độ dài triền miên không dứt của thời gian hiện tại, nhằm
khắc họa tâm trạng cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ. Thời gian trong tác
phẩm là một thời gian hiện tại mong nhớ kéo dài vô tận, trong hồi tưởng về buổi
tiển đưa đã có đến ba cuộc tiển đưa, đây là thời gian về tâm lý. Đó là cuộc
tiển đưa giữa hai người:
“Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước dây
dây lại dừng”
Cuộc tiễn đưa theo đoàn quân:
“Giáp mặt rồi phút bỗng
chia tay
Hà lương chia rẽ đường này
Bên đường trông lá
cờ bay ngùi ngùi”
Và cuộc tiễn đưa
trong tâm tưởng:
“Cùng trông lại mà
cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những
mấy ngàn dâu”
Tính liên tục tuần hoàn của
thời gian được thể hiện trong một đoạn thơ trách người chinh phu lỡ hẹn diễn ra
với ý niệm thời gian liên tục tuần hoàn của vũ trụ, nhất là vòng tuần hoàn bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông:
Thuở lâm
hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày
về ước nẻo quyên ca
Nay quyên
đã giục oanh già
Ý nhi lại
gáy trước nhà líu lo
Thuở đãng
đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày
về chỉ độ đào bông
Nay đào
đã quyến gió đông
Phù dung lại rã bên sông ba xoà
Chim oanh biểu trưng cho mùa
xuân, chim đỗ quyên là biểu trưng cho mùa hè, hoa đào là biểu trưng cho mùa
xuân,...Cả đoạn thơ không một từ chỉ thời gian, mà nó chỉ hiện
lên những hình ảnh của những sinh thể trong đời sống tự nhiên. Chính sự tuần
hoàn lặp lại của những hình ảnh ấy giúp người đọc có thể hình dung ra được sự
tuần hoàn trôi chảy đến bất tận của thời gian. Bên cạnh đó trong đoạn thơ, tác giả còn dùng kết cấu thơ trùng
điệp thể hiện tâm trạng chờ đợi mõi mòn của người chinh phụ, nàng cứ đợi chờ hy
vọng người chinh phu sẽ trở về như lời hẹn ước.
Tính liên tục tuần hoàn của
thời gian không những thể hiện bằng phương thức gián tiếp qua những hình
ảnh biểu trưng mà nó còn được diễn tả trực tiếp bằng những từ chỉ thời gian như
sáng – trưa - chiều - tối, ngày, đêm.
Hẹn cùng
ta Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông nào thấy hơi tâm,
Ngập
ngừng lá rung cành trâm,
Thôn trưa nghe dậy tiếng
cầm lao xao.
Hẹn nơi
nao Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm nào có tiêu hao,
Ngập
ngừng gió thổi chéo bào,
Trong cái vòng tuần hoàn sáng
- trưa - chiều - tối thì thời gian buổi chiều và ban đêm thường thay nhau
xuất hiện nhiều trong Chinh Phụ Ngâm. Tất cả như
khắc sâu vào nỗi mong nhớ người chinh phu, tâm trạng nhớ
thương của người chinh phụ là một tâm trạng thường trực. Những câu thơ lặp cấu
trúc trùng điệp có tác dụng khắc họa sự luân chuyển biến đổi, liên tục
tuần hoàn của thời gian. Qua đó, làm bật nổi sự chờ đợi mỏi mòn đến tái tê của
người chinh phụ. Sự
vận hành của thời gian của vũ trụ cứ tuần hoàn trôi chảy mà cuộc đời con người
thì hữu hạn. Cảm thức này luôn thường trực trong quan niệm của con người trung
đại.
Cảm thức về không gian của con
người trung đại đó là không gian vũ trụ bao la vô cùng, vô tận mang tính chất
vĩnh hằng. Đối lập với không gian vũ trụ là không gian thưc tại, không gian
trong tâm tưởng nhân vật, đó là nơi gắn bó tạm bợ của con người, biến đổi khôn
lường. Trong Chinh phụ ngâm thể hiện
đầy đủ những cảm thức về không gian của con người trung đại. Đó là không gian
chiến trận gắn liền với số phận người chinh phu. Có thể nói phần lớn khúc ngâm
là hình ảnh người chinh phụ dõi mắt trông theo người chinh phu từ lúc chia tay
đến khi hành quân ra chiến trận. Không gian chiến trận hiện lên bao la hoang
vắng:
“Chàng từ đi vào nơi gió cát
Đêm trăng này nghĩ mát nơi nao”
Không gian bao la, mênh mông
được gới lên với hai từ “gió cát”. Hay sự bao la, hoang vắng:
“Non kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy
gò”
Không gian hiện lên với sự thê
lương, ảm đạm, thiếu sự sống. Điều đó thể hiện phần nào tính chất của cuộc
chiến, chẳng phải là một cuộc chiến vì chính nghĩa, vì công lý mà đó là cuộc
chiến tranh phi nghĩa của thế lực phong kiến.
Đối lập với không gian bao la,
rộng lớn ấy đó là không gian nơi khuê phòng gắn liền với cuộc sống vô vị của
người chinh phụ. Nơi người thiếu phụ một mình lẻ loi chiếc bóng, ngày nhớ đêm
mong, luôn dõi mắt theo người chồng nơi chiến trận.
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Không gian lạnh lẽo, một mình
người chinh phụ đối diện với ngọn đèn khuya, không gian ngột ngạt, tù túng, bao
trùm là nổi khắc khoải nhớ mong của người chinh phụ.
“Rêu xanh mấy lớp chung quanh
Dạo sân một bước trăm tình ngẩn
ngơ”
Không gian ảm đạm. đìu hiu bị
vây phủ bởi mấy lớp rêu xanh. Tâm hồn người chinh phụ nặng chữ tình, mỗi bước
chân như trĩu nặng những nỗi nhớ niềm thương.
Đó còn là không gian ngoại cảnh
mênh mông gắn với tâm trạng ngóng trông, khắc khoải đợi chờ. Nàng trông về bốn phương xa xôi:
“Trông bến nam bãi chia mặt
nước
Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh”
“Trông đường Bắc đôi chòm quán
khách
Rườm rà cây xanh ngắt núi non”
“Non Đông thấy lá hầu chất đống
Trĩ sập sè mai cũng bẻ bai”
“Lũng tây thấy nước dường uốn
khúc
Nhạn liệng không song giục
thuyền câu”
Bốn phương mang những màu sắc
khác nhau, gắn liền tâm trạng người chinh phụ lúc êm đềm lúc lại trào dâng.
Chinh phụ ngâm còn thể hiện
không gian ảo mộng gắn với tâm trạng nhớ thương và khát vọng hạnh phúc:
“Sớm còn hồn mộng được gần
Đêm đêm thường đến Giang Tân
tìm người”
Nàng tìm quên trong men rượu,
vượt qua những khoảng cách địa lí xa xôi để tìm người chinh phu trong giấc mộng
cho vơi đi nỗi nhớ. Không gian trong giấc mộng là chổ dựa tinh thần để người
chinh phụ thỏa ước mơ xum họp, đoàn viên.
Cảm thức về thời gian và không
gian của con người trung đại có mối quan hệ với nhau. Thời gian tuyến tính có
quan hệ mật thiết với không gian thực tại phản ánh mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể
xa”
Thời gian ở đây như ngừng lại,
đó là thời gian của tâm trạng. ở đây có sự kết hợp giữa không gian tù túng và
thời gian chậm chạp
Thời gian chu kỳ có quan hệ mật
thiết với không gian vũ trụ:
“Tin
thường lại người không thấy lại,
Hoa dương
tàn đã trải rêu xanh,
Rêu xanh
mấy lớp chung quanh,
Sân đi
một bước trăm tình ngẩn ngơ”
Hình ảnh thiên nhiên đang vận
động biểu trưng cho sự trôi chảy của thời gian. Từ đó làm bật nổi sự vận động
của thời gian trong cái tuần hoàn bất tận trong không gian bao la, mênh mông.
Chinh phụ ngâm thể hiện được cảm thức của con người trung đại về thời gian và
không gian trong mối quan hệ vận hành của vũ trụ. Đó là cảm thức về thời gian
tuần hoàn, luân hồi của vũ trụ và thời gian tuyến tính ngắn ngủi, thời gian của
tâm trạng. Cảm thức về không gian vũ trụ bao la vô cùng, vô tận mang tính chất
vĩnh hằng và không gian trong tâm tưởng nhân vật đó là nơi gắn bó tạm bợ của
con người, biến đổi khôn lường. Chinh phụ
ngâm còn thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ giữa thời gian và không gian,
từ đó thấy được những nét độc đáo, sâu sắc của tác phẩm mang đậm nét về những
đặc điểm của văn chương trung đại, mà cảm thức về thời gian và không gian là
một điển hình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét