Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX

1. Cở sở hình thành truyện ngắn quốc ngữ Nam Bộ
1.1. Cơ sở lịch sử, xã hội
Sự ra đời của truyện ngắn Nam Bộ có quan hệ chặt chẽ đến những biến cố lớn của lịch sử, những biển chuyển của xã hội và văn hoá dân tộc.
Nền văn học quốc ngữ ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX đã được hình thành trong thời kỳ miền Nam rơi vào vòng thuộc địa của thực dân Pháp và trải qua nhiều chặng đường chống xâm lăng của nhân dân Việt Nam. Năm 1861, tại Chí Hoà, Nguyễn Tri Phương thất thủ, năm sau (1862) Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông rồi thu tóm lục tỉnh Nam Kỳ (1867). Năm 1884, sau hiệp ước Patenôtre Việt Nam hoàn toàn mất độc lập, chủ quyền.Từ đó đã nảy sinh nhiều biến chuyển quan trọng trong xã hội Nam Kỳ
Hiện tượng lịch sử nổi bật của thời kỳ này là cuộc nổi dậy của nghĩa quân miền Nam dưới sự chỉ huy của các tướng lãnh không phục mệnh triều đình, các quan lại sỹ phu yêu nước như: Hồ Huân Nghiệp ở Mỹ Tho, Trương Định ở Gò Công; Nguyễn Trung Trực ở vùng Long An – Rạch Giá – Hà Tiên; Thủ Khoa Huân ở Mỹ Tho; Đốc binh Kiều ở Đồng Tháp; Trần Thiện Chánh, Lê Huy, đốc binh Là ở vùng Cần Giuộc, Rạch Kiến, … Vào thời gian này nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” để ca ngợi những tấm gương hy sinh anh dũng của nghĩa quân đó.
          Năm 1885, nổ ra cuộc khởi nghĩa 18 thôn Vườn Trầu chiếm vùng Hóc Môn – Bà Điểm giết Việt gian Đốc Phủ Ca. Đến đầu thế kỷ XX vẫn còn liên tiếp hai cuộc khởi nghĩa nữa vào năm 1913 và 1916. Khi  phong trào Cần Vương lụi tàn thì phong trào Dông Du, phong trào Duy Tân khởi xướng và chí sĩ Nam Kỳ hưởng ứng sôi nổi như Diệp Văn Cương, Trần Chánh Chiếu, Đặng Thúc Liêng, Lương Khắc Ninh, …Năm 1903 Phan Bội Châu đến vùng thái sơn Châu Đốc gặp một nhà sư họ Trần để kiểm điểm lực lượng Cần Vương còn sót lại và gặp gỡ các nhà Duy Tân Nam Kỳ. Và nhiều phương tiện truyền thông đại chúng cổ vũ cho phong trào này như các tờ báo Nông cổ mín đàn, Lục tỉnh tân văn... Các phong trào đã thể hiện một bước trưởng thành trong ý thức của nhân dân Nam Kỳ trên con đường giải phóng đất nước.
Quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn diễn ra nhanh chóng, nhất là ở những trung tâm quan trọng như Sài Gòn, Chợ Lớn. Bởi lẽ Sài Gòn là trung tâm lớn của Nam Kỳ với sự xuất hiện nhiều tầng lớp giai cấp, bến cảng, công nghiệp liên quan được chú ý phát triển. Và hệ quả tất yếu của chính sách thực dân về chính trị và kinh tế là đã gây ra một sự phân hoá sâu sắc trong các tầng lớp xã hội ở Nam Kỳ. Bên cạnh những người nông dân truyền thống, nhiều thành phần, tầng lớp, nghề nghiệp mới đã xuất hiện: công nhân, thông ngôn, bồi bếp, trí thức nho học, Tây học, …
Như vậy, về mặt lịch sử vào đầu thế kỷ XX ở miền Nam mà đặc biệt là Sài Gòn, đã dần dần trở thành trung tâm chính trị quan trọng của Việt Nam. Các giai cấp, các tầng lớp, các tổ chức chính trị đều muốn thể hiện các chương trình hành động về chính trị, xã hội, văn hoá của mình. Trong đó, nổi bật nhất vẫn là ý chí giành độc lập tự do, thể hiện trên mọi bình diện sinh hoạt của dân tộc lúc bấy giờ.
1.2. Cơ sở văn hóa, thẩm mỹ
Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam đã bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX theo nhiều phương thức như cách tân dần dần văn học truyền thống theo kiểu phương Tây, hoặc gấp rút hiện đại hoá văn học Việt Nam qua con đường tiếp nhận trực tiếp văn học Pháp. Tiến trình hiện đại hoá của văn học quốc ngữ miền Nam đã diễn ra bằng tất cả các phương thức trên và đồng thời thể hiện khá đầy đủ những nét lớn của quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.
Mối quan hệ với văn học Hán Nôm đặc biệt là ở thế kỷ XIX với sự kế thừa các truyền thống yêu nước, nhân đạo, nhân văn, kế thừa các thành tựu thi pháp, … là một cơ sở tinh thần đáng kể trong giai đoạn sơ khởi của văn học quốc ngữ Việt Nam nói chung và ở Nam Kỳ nói riêng. Các nho sĩ đã dùng văn học làm vũ khí trong phong trào bút chiến chống tay sai thân Pháp, thể hiện âm vang của luồng cảm hững yêu nước, ang hùng. Ngoài ra, cũng thấy có sự tiếp nhận cảm hứng nhân đạo, nhân văn và truyền thống trong mảng văn chương sáng tác ở miền Nam (truyện ngắn, tiểu thuyết).
Chữ quốc ngữ đã xuất hiện rất sớm và rất phong phú trên báo chí miền Nam trong thập niên đầu thế kỷ XX. Chữ quốc ngữ được phát sinh từ con đường tôn giáo từ bên ngoài vào. Nhờ chữ Quốc ngữ phổ biến báo chí ra đời, chính sách báo chí thuộc địa, sự du nhập các máy in. Đó là ba điều kiện hình thành nền báo chí phát triển nhất Việt Nam lúc bẫy giờ.
Về vai trò của báo chí. Báo chí là lĩnh vực quan trọng, là một công cụ cùng được cả người Việt Nam lẫn người Pháp rất quan tâm khai thác. Điều này được minh chứng qua một số báo chí trong các chặng đường phát triển qua các giai đoạn cụ thể sau:
v Giai đoạn từ 1865 – 1908 là giai đoạn khởi đầu của báo chí quốc ngữ Việt Nam, trước hết là ở Nam kỳ. Các tờ đáng chú ý:
Gia Định báo (1865 – 1919), là tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam được chính phủ thuộc địa lập ra, những người phụ trách là công chức của  nhà nước, do nhà nước trợ cấp, độc giả cũng là công chức vì lúc này số dân biết chữ quốc ngữ chưa nhiều. Gia Định báo thực hiện một số mục tiêu tích cực như: “ Cổ động cho một lối học mới, phát triển chữ Quốc ngữ và khuyến khích dân chúng học chữ Quốn ngữ”
              Tờ báo này đã đăng tải nhiều công trình dịch thuật, sưu tầm, biên khảo của các tác giả Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của,… Trong lời nói đầu, Trường Vĩnh Ký xác định mục đích của nó (giữ nguyên văn chính tả và ngữ pháp): Coi sách dạy lắm, nó cũng nhàm; nên phải có cái chi chi pha vào một hai khi nó mới thú. Vậy ta tính làm một tháng đôi ba kỳ, một tập mỏng mỏng nói chuyện sang - đàng, chuyện tam hoàng cuốc chí, pha phách lộn - lạo xài - bần để cho học trò coi chơi cho vui. Mà không phải là chơi không vô - ích đâu; cũng là những chuyện con người - ta ở đời nên biết.
Phan Yên báo (1898 – 1899), ra đời được bảy số. Đây là tờ báo do Diệp Văn Cương, một du học sinh ở Alger sáng lập, nhưng “chưa rõ có ai được thấy mặt mũi nó ra sao” thì bị Pháp đóng cửa.
        Nam Kỳ nhựt trình ra số tiên ngày 21-10-1897, là tờ báo quốc ngữ do một tư nhân người Pháp Schneider sáng lập, đăng các tin tức công vụ, thông báo của chính quyền, và các bài viết, bài dịch của Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương, …
Nông Cổ Mín Đàm (nghĩa là nhà nông và nhà buôn cùng uống trà trò chuyện), do một nhà kinh doanh báo chí người Pháp Canavaggio sáng lập, với mục tiêu mở mang dân trí, “thông tình nhau mà lại rộng kiến văn”, …
          Lục tỉnh Tân Văn ra đời năm 1907, chủ bút là nhà văn Trần Chánh Chiếu. Đây là tờ báo có khuynh hướng tích cực rõ rệt, thể hiện qua số lượng văn chương nghị luận với nhiều đề tài phong phú như chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, …
         v Giai đoạn 1908 – 1918. Giai đoạn này có một số báo gây tiếng vang.
Đại Việt tạp chí do Hồ Biểu Chánh chủ trương, tờ báo định kỳ này có tính cách truyền bá văn học hơn là một tờ thông tin.
Tờ Nữ giới chung do nữ sĩ Sương Nguyệt Anh điều khiển ban biên tập ra mắt năm 1918. Tuy chỉ tồn tại một năm, nhưng đây là tờ báo có chủ trương truyền bá chữ quốc ngữ và quan tâm đến vị trí của người phụ nữ, tờ này đăng những bài xã luận, thơ tiểu thuyết, một vài tin tức và một phần làm bếp.
          v Giai đoạn 1918 – 1930. Ở Nam Bộ có một số tờ tiêu biểu như sau:
Nhật Tân báo của Cao Hải Để (1922)
Đông Pháp thời báo của Nguyễn Kim Đính sau do Diệp Văn Cương và Nguyễn Văn Bá điều khiển đã nói lên “những vấn đè phản ánh những nỗi lo âu của người dân và ý thức quốc gia từ lâu bị che trong lòng dân tộc”.
            Rạng đông tạp chí (1926) do Trần Huy Liệu làm chủ bút.
Tờ Kịch trường (1928). Tuy lấy tiếng là báo chuyên về điện ảnh và kịch, nhưng sau đó báo này đã hoàn toàn đối lập với chính quyền. Báo này ca ngợi lý thuyết Tam dân của Tôn Dật Tiên, đăng vụ án Nguyễn An Ninh. Báo đã bị vĩnh viễn đóng cửa năm 1929.
Kỳ Lân báo (1928) có khuynh hướng cộng sản, tuyên truyền tư tưởng Mác xit bị đóng cửa năm 1929.
Đuốc nhà Nam (1928) chú trọng về giới nông dân, lao động, chủ trương vạch rõ bộ mặt thật của chế độ thực dân, thực chất của nền văn minh Âu tây, bị cấm lưu hành ở miền Bắc từ năm 1928, và còn tồn tại trong Nam cho đến năm 1937.
Tóm lại báo chí Nam Bộ đã đóng góp khá nhiều công sức vào việc hiện đại hoá và xây dựng một nền văn hoá văn học dân tộc. Tất cả những yếu tố mà chúng tôi điểm qua một cách sơ lược trên là tiền đề cho văn xuôi quốc ngữ Nam bộ mà cụ thể là truyện ngắn ra đời.
2. Đặc điểm truyện ngắn Nam Bộ thời kì đầu thế kỉ XX
2.1. Định nghĩa truyện ngắn
Có nhiều định nghĩa khác nhau về truyện ngắn, các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước thậm chí các nhà văn cũng thể hiện quan niệm truyện ngắn của mình.
Truyện ngắn là một thể loại văn học. Nó thường là các câu chuyện được kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu chuyện dài như tiểu thuyết. Thông thường truyện ngắn có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, trong khi đó tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó.
Ở Việt Nam, theo Thanh Lãng thì khái niệm truyện ngắn hiện đại Việt Nam chỉ có từ đầu thế kỷ XX trở đi. Bùi Việt Thắng cho rằng truyện ngắn có mầm mống từ rất sớm, nó có mầm mống từ văn xuôi trung đại chữ Hán, ông luận giải, có truyện ngắn chữ Hán và truyện ngắn hiện đại trong dòng chảy của lịch sử văn học Việt Nam. Thế kỷ XI, mầm mống truyện ngắn đã xuất hiện với Việt điện u linh. Thế kỷ XV trở đi, truyện viết mang tính nghệ thuật có yếu tố cá nhân và yếu tố thần kỳ trong văn học. Thế kỷ XVII về sau, nó biến đổi dần thành ra tiểu thuyết chương hồi và truyện Nôm.
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chữ quốc ngữ phổ biến rộng rãi đặc biệt ở Nam Bộ, tác phẩm dịch thuật cũng đi vào miền Nam. Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu sáng tác những truyện mang đề tài tôn giáo, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký viết những truyện gắn với những vấn đề xã hội (hình thức ngắn, đậm chất dân gian: gây cười, ngụ ngôn).
Tóm lại truyện ngắn là hình thức tự sự cở nhỏ, có dung lượng nhỏ so với tiểu thuyết và thường tập trung thể hiện một sự kiện nào đó trong đời sống của một nhân vật hoặc một phương diện nào đó của nhân vật, người ta xem truyện ngắn là một lát cắt cuộc sống.
2.2. Các giai đoạn hình thành và phát triển truyện ngắn Nam Bộ đầu TK XX
Phương Lựu cho rằng Sự hình thành và phát triển của truyện ngắn Việt Nam hiện đại những thập niên đầu thế kỷ XX đã chịu sự tác động của ba nguồn ảnh hưởng chính: truyền thống văn học dân gian Việt Nam, truyền thống văn học trung đại Việt Nam và Trung Quốc (nhất truyền thống truyền kỳ như Truyền kỳ mạn lục, Liêu trai chí dị …) và truyền thống văn xuôi Pháp (nhất là thế kỷ XIX) và phương Tây. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, truyện ngắn Nam Bộ tạm chia là ba giai đoạn như sau:
2.2.1. Giai đoạn phôi thai:
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ đầu phát triển của văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ. Các tác giả có vốn Hán học và Tây học như Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký coi luân lí phong kiến cổ điển là đẹp đẽ và muốn dùng văn chương tiếng Việt để truyền bá sâu rộng trong lớp người ít học ở miền Nam. Và họ dùng chữ quốc ngữ để ghi lại những “ Chuyện đời xưa”, “Chuyện khôi hài” (Trương Vĩnh Ký), “ Chuyện giải buồn” (Huỳnh Tịnh Của). Vì thế, truyện ngắn Nam Bộ được manh nha từ những truyện dân gian, mang hình thức của truyện dân gian.
Đầu thế kỷ XX, trên các báo quốc ngữ ở Nam Bộ đã xuất hiện những tác phẩm còn mang dấu vết của kiểu truyện kể đơn giản, chưa có yếu tố gia công về kỹ thuật cao. Đôi khi đó chỉ là những truyện kể rất ngắn gọn, chỉ chú ý đến sự kiện, nhân vật chỉ được phát họa một cách sơ sài. Bùi Đức Tịnh đã nhìn nhận đó là “những bài theo lối chuyện đời xưa, chuyện kể dân gian”. Ta có thể bắt gặp những truyện được viết theo hình thức này như: Chuyện hai anh khùng; Chuyện anh hà tiện(Trần Phục Lễ - 1903); Làm khôn cả Phồn sinh dại (1903); Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn (1902) của Nguyễn Chánh Sắt;Chuyện mượn đày tớ (Nguyễn Phương Chánh – 1903), hay những truyện Tiếu đàm (1907) của Bàn Nhơn, Hướng truyền (1908) của Thượng Chiêu, Chuyện ngộ ngất (1908) của Nguyễn Tự Cường, Nhàn đàm (1907) của Nguyễn Thành Long, Huyển thuật ngộ nhơn phản hại kỷ (1908) của Lai Mỹ, truyện phóng tác “ Mang tiếng oan” (1908) của Giibert Chiếu, Khảo bất khiết khoa (1908) của Thời Hải…Tuy vây, thời kỳ này cũng có một số truyện ngắn mang yếu tố hiện đại hóa về cảm hứng như Tự Thuật của Lâm Kiêm Liêng… Ngôn ngữ còn thiên nhiều về khẩu ngữ. Do ảnh hưởng của phong trào Minh Tân xuất hiện một số truyện kể có nội dung phê phán những tiêu cực trong đời sống xã hội như mê tín: Huyển thuật ngộ nhơn phản hại kỷ (1908) của Lai Mỹ hay phê phán những tệ nạn xã hội: Hướng truyền (1908) của Thượng Chiêu.
2.2.2. Giai đoạn trưởng thành và phát triển:
Do sự phân hóa và diễn biến phức tạp của xã hội thực dân ở Nam bộ tạo nên một thực tại phong phú về tình cảnh khác nhau của con người và cuộc sống. Đây chính là điểm kích thích truyện ngắn vượt qua những ngụ ngôn và ẩn dụ dân gian để đến với những cảm hứng sáng tạo mới mẻ đầy màu sắc thời đại, với sở trường của nó đã phản ánh từng mảng nhỏ của thực tại cuộc sống. Giai đoạn này truyện ngắn dần dần được nâng lên cao ở các mặt đề tài tạo nên bức tranh sinh động của cuộc sống buổi giao thời. Chẳng  hạn: phê phán lối sống xa hoa phô trương chịu ảnh hưởng từ nền văn minh phương Tây như: Con vịt một cẳng của P.Hòa, Chủ nhà phong lưu của Trương Duy Toản; tích cực vận động phong trào Minh Tân ca ngợi con đường học hành mở mang kiến thức đem lại văn minh cho nước nhà như: Thời sự tiểu thuyết của Huỳnh Phụng Minh . Bên cạnh đó những yếu tố của truyện ngắn hiện đại cũng bắt đầu manh nha: ngôn ngữ, cốt truyện, xung đột, nhân vật… dần thoát khỏi hình thức truyện kể đơn giản, lời văn nhẹ nhàng sảng sủa hơn.
Cuối thập kỷ 20, trên báo chí Nam Bộ đã xuất hiện nhiều truyện khá ấn tượng như: Bạch Công tử gặp Hắc Công tử của Mộng Xuân, Giả thiệt là ai của Trần Quang Nghiệp, Gặp người khách quý của Trần Quang Nghiệp, Ôi ái tình của Công Bình… Một số tác giả nổi bật của giai đoạn này là Trần Quang Nghiệp, Bửu Đình, Công Bình, Thúc Anh, Khổng Lồ, Vũ Văn Đang, Thái Bình Dương, … trong thập niên 1920 – 1930.
2.2.3. Giai đoạn hội nhập
Cuối thập niên 1930 sang thập 1940, truyện ngắn Nam Bộ đã hội đủ các tiêu chí về nội dung và nghệ thuật của thể loại truyện ngắn hiện đại về nhiều phương diện. Bên cạnh đó, một bộ phận nhà văn Nam Bộ đã hoà nhập cùng cuộc kháng chiến giành độc lập tự do nên cảm hứng truyện ngắn thời kỳ này càng nhiều màu sắc phong phú, từ cảm hứng chiến tranh đến cảm hứng đời thường. Từ những năm trong thập niên 1940, nhiều tên tuổi nổi tiếng của truyện ngắn Nam Bộ như Phan Ngọc Hiển, Phi Vân, và thời gian không lâu là Sơn Nam, Trang Thế Hy, … Truyện ngắn của lớp nhà văn này vẫn giữ được bản sắc Nam Bộ, gắn bó với chất liệu ngôn ngữ Nam Bộ làm thành ngôn ngữ văn chương, và đến đây, có thể nói rằng ngôn ngữ văn chương trong truyện ngắn Nam Bộ đã đạt đến độ trưởng thành, và song song đó là cảm hứng Nam Bộ đã hoà nhập vào cảm hứng dân tộc, cảm hứng lịch sử, thời đại.
 2.3. Đặc điểm của truyện ngắn Nam bộ đầu thế kỷ XX so với truyện ngắn hiện nay:
Dựa vào một số truyện ngắn từ 1908 đến 1931 tham khảo được chúng tôi sẽ trình bày về những đặc điểm bước đầu của truyện ngắn trong nền văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX so với nền văn học hiện nay như sau:
Về mặt hình thức: Thời ấy truyện ngắn thường được gọi là đoản thiên tiểu thuyết: tiểu thuyết viết thành bài ngắn.
Ban đầu là những bài viết theo lối chuyện đời xưa, chuyện kể dân gian. Về sau là những câu chuyện đời thường có hành động của các nhân vật, các tình tiết của sự kiện giống như trong tiểu thuyết, được trình bày trong những bài ngắn gọn. Có truyện các tình tiết được trình bày một cách hấp dẫn để đi đến một kết thúc bất ngờ (Con của ai?). Có truyện kể việc rất bình thường có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, thời nào, được trình bày dưới nhan đề (Thời sự tiểu thuyết). Có truyện tình tiết phong phú như tiểu thuyết, được trình bày trong một bài khá dài (Dưới cội đào). Nói chung, các truyện ngắn đáp ứng yêu cầu của đa số độc giả đương thời hơn là thể hiện ảnh hưởng của văn hoá Pháp. Mục đích của người viết là giúp người đọc “mua vui” và suy ngẫm về nhân tình thế thái.
Nội dung trong truyện ngắn Nam Bộ không vay mượn của ai mà lấy từ cuộc sống thực tại, tập trung phản ánh vấn đề đạo đức nhưng “không ra sức ghì níu cho ngôi nhà đang ọp ẹp của đạo đức tam cương ngũ thường”, tập trung chống hủ tục, chống cờ bạc rựu chè, chống mê tín dị đoan, chống ghen tuông bạc ác, tích cực vận đông Minh tân...
          Các truyện đã phản ánh được những nhố nhăng của xã hội buổi giao thời, bao giá trị xã hội đang dần bị xáo động bởi “đời này là đời kim tiền, mỗi món gì cũng phải có tiền mới là xong” (Đồ hèn mạt). Còn truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy khá mới, truyện có thể kể về cả một cuộc đời, hay một đoạn đời, một sự kiện hay một “ chốc lát” trong cuộc sống nhân vật. Tác giả thường hướng tới khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Xây dựng nhân vật là một hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc là trạng thái tồn tại của con người.
          Cũng như truyện ngắn Nam Bộ đầu thế kỷ XX, truyện ngắn hiện nay với hình thức ngắn, tái hiện cuộc sống đương thời, phản ánh hiện thực cuộc sống một cách sinh động, khách quan thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn, những chuyện đời tư, thế sự... Nhưng giữa truyện ngắn Nam bộ đầu thế kỷ  XX so với truyện ngắn hiện nay vẫn có nhiều điểm riêng.
Chẳng hạn ở cốt truyện và kết cấu: truyện ngắn Nam bộ đầu thế kỷ XX  với lối kết thúc phi truyền thống, không theo cấu trúc “tam đoạn có hậu” như các truyện Nôm truyền thống. Cốt truyện giống như màn hoạt cảnh bi hài đầy tính thời sự, các chi tiết đều hết sức bất ngờ, mới lạ.
Còn truyện ngắn hiện nay cốt truyện và kết cấu mang tính thống nhất cao. Thống nhất tức là thống nhất từ cách mở truyện đến cách kết thúc truyện phải đảm bảo, thống nhất trong tư tưởng nhà văn tức là  phải tuân theo hệ thống
Bên cạnh đó, nghệ thuật sử dụng trong truyện ngắn Nam bộ đầu thế kỷ so với truyện ngắn hiện nay cũng có những nét riêng. Ta thấy ở truyện ngắn Nam bộ các biện pháp tu từ cũng đã được sử dụng một cách có nghệ thuật để miêu tả, khắc hoạ những nét độc đáo của nhân vật. Cách dẫn truyện cũng có nhiều sáng tạo, kết cấu chặt chẽ, kịch tính của truyện tăng dần, truyện càng ngắn kịch tính càng cao. Đặc biệt lối kết bỏ lửng hoặc bất ngờ đã gây được cảm giác thú vị cho người đọc, đồng thời tạo ra chiều sâu cho tác phẩm.
                  Về nghệ thuật ngôn ngữ trong truyện ngắn Nam Bộ đậm chất đời thường. Điểm nổi bật thể hiện ở ngôn ngữ nôm na, mộc mạc phù hợp với cách nói của người dân Nam Bộ, sử dụng nhiều từ địa phương, ngôn ngữ thấm đượm màu sắc chân quê, dân dã. Trong khi đó ở truyện ngắn hiện nay, các biện pháp tu từ được sử dụng một cách sinh động, ngôn ngữ thường trau chuốt gợi hình.
3. Thống Kê và Phân loại truyện ngắn Quốc ngữ Nam Bộ
3.1. Thống kê
STT
TÁC PHẨM
TÁC GIẢ
1
Chủ nhà phong lưu
Trương Duy Toản
2
Thời sự tiểu thuyết
Huỳnh Phụng Minh
3
Con vịt một cẳng
P. Hòa
4
Ôi! Ái tình
Công Bình
5
Giấc mộng
Hà Trí
6
Trời phật công bình
Trần Quang Nghiệp
7
Đồ hèn mạt
Thức Anh
8
Bạch công tử gặp Hắc công tử
Mộng Xuân
9
Ai muốn làm giàu?
Trần Quang nghiệp
10
Gặp người gái đẹp
Trần Quang Nghiệp
11
Cũng vì ham bằng cấp tú tài
Thanh Nhàn
12
Giả thiệt là ai?
Trần Quang nghiệp
13
Gặp người khách quý
Trần Quang nghiệp
14
Đốt lịch
Bình Trọng
15
Dưới cội đào
Khổng Lồ
16
Ăn mày trúng số
Trần Quang nghiệp
17
Con của ai?
Trần Quang nghiệp
18
Bà chủ nhà và tên sớp-phơ
Vũ Văn Đang
19
Cười ra nước mắt
Thái Bình Dương
20
Trên lầm dưới lỗi
Trần Quang nghiệp
21
Ai người hẹn ngọc
Việt Đông
22
Văn minh quái gở
Việt Đông

3.2. Phân loại
3.2.1 Đề tài thế sự
            v Chủ đề phê phán lối sống hưởng lạc, buông thả, tham danh hám lợi, chạy theo sức mạnh của đồng tiền, học đòi làm sang:
-         Chủ nhà phong lưu: Trương Duy Toản
-         Bạch công tử gặp Hắc công tử: Mộng Xuân
-         Đồ hèn mạt: Thức Anh
-         Văn minh quái gở: Việt Đông
-         Ăn mày trúng số: Trần Quang Nghiệp
-         Gặp người gái đẹp: Trần Quang Nghiệp
-         Cũng vì ham bằng cấp tú tài: Thanh Nhàn
-         Giả thiệt là ai: Trần Quang Nghiệp
-         Cười ra nước mắt: Thái Bình Dương
v Chủ đề phê phán lối sống xa hoa, phô trương, ảnh hưởng nền văn hóa Tây âu:
-         Con vịt một cẳng: P. Hòa
v Chủ đề phê phán xã hội bị đảo lộn về sự tàn ác, tham lam, giả dối, kêu gọi con người hoàn lương, trở về với tính thiện:
-         Trời phật công bình: Trần Quang Nghiệp
-         Gặp người khách quý: Trần Quang Nghiệp
-         Con của ai: Trần Quang Nghiệp
-         Trên lầm dưới lỗi: Trần Quang Nghiệp
-         Bà chủ nhà và tên sốp-phơ: Vũ Văn Đang
v Chủ đề phê phán lối sống mê tín dị đoan
-         Đốt lịch: Bình Trọng
v Chủ đề ca ngợi con đường học hành mở mang kiến thức, đem lại văn minh cho nước nhà:
-         Thời sự tiểu thuyết: Huỳnh Minh Phụng
-         Giấc mộng: Bửu Đình
  v Chủ đề triết lí:
 - Dưới cội đào
- Ăn mày trúng số
3.2.2. Đề tài tình cảm, tình yêu, hôn nhân, gia đình
v Chủ đề tình yêu đôi lứa, những mâu thuẫn, trắc trở giữa tình yêu tự do trước những ràng buộc của lễ giáo phong kiến:
-         Dưới cội đào: Khổng Lồ
-         Ai người hẹn ngọc: Việt Đông
v Chủ đề về con người trong vòng xoáy của dục vọng:
-         Ôi! Ái tình: Công  Bình
-         Tự thuật: Lâm Kim Liêng
4. Nghệ thuật trong truyện ngắn quốc ngữ Nam Bộ
4.1. Nghệ thuật trần thuật
Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã thống nhất quan niệm: “Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự, thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện thắt nút, mở nút sang chủ thể thẩm mỹ của tác phẩm tự sự”.
Cùng với những quan niệm đó, các tác giả trong cuốn Lý luận văn học xác định cụ thể: “Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện của hình tượng văn học, truyền đạt nó tới người thưởng thức. Bố cục của trần thuật là sắp xếp, tổ chức sự tương ứng giữa các phương diện khác nhau của hình tượng với các thành phần khác nhau của văn bản”.
Từ những quan điểm đó, ta có thể hiểu: Trần thuật là giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự việc theo cái nhìn nhất định. Nghệ thuật trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, nó có tác dụng soi sáng nội dung tư tưởng của tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo độc đáo của nhà văn.
Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi được gọi là người trần thuật - một loại trung giới giữa cái được miêu tả và độc giả, loại người chứng kiến và giải thích về những gì đã xảy ra. Ngôi này thường được gọi là “ngôi thứ ba” và thường là “vô hình”, phi nhân cách hóa. Có thể thấy, người kể truyện ở ngôi thứ ba do tác giả sáng tạo ra, lời kể ở đây mang tính khách quan hóa và trung tính. Ở kiểu kể chuyện này để gia tăng thêm ý nghĩa cho câu chuyện. Nghệ thuật trần thuật xuất hiện khá nhiều trong các truyện ngắn quốc ngữ Nam Bộ lúc bấy giờ. Trong truyện Gặp người gái đẹp: “Thầy Mười Trương làm thinh suy nghĩ: Bùi Thế Ngươn là tay viết báo có danh mà cái màu xanh xanh này kiếm hỏi làm gì? Hay là mộ tài viết báo? Hay là tình cũ nghĩa xưa mà hôm nay chẳng còn nhớ mặt rõ ràng. Người ta lầm mình là Bùi Thế Ngươn âu là mình cũng làm bướng nhận càng thử coi, họa may có hưởng đặng chút ít hương phấn gì chăng.”
( Gặp người gái đẹp – Trần Quang Nghiệp)
Trần thuật ở ngôi thứ nhất là tác giả viết về những điều mình đã trải qua, đã chứng kiến và nếm trải, chiêm nghiệm. Và tất nhiên, với tính chất hư cấu của tiểu thuyết (và cả truyện ngắn), “tôi” không hẳn là tác giả mà chỉ là một nhân vật của truyện. Lời trần thuật ở đây vừa là ngôn ngữ kể truyện của tác giả vừa là ngôn ngữ kể truyện của nhân vật, tức vừa là lời trực tiếp, vừa là lời gián tiếp (của nhân vật). Trong truyện ngắn quốc ngữ Nam Bộ giai đoạn này cũng bắt gặp hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất tiêu biểu qua Ôi ái tình của Công Bình. các sáng tác của Trần Quang Nghiệp, với hình thức thứ nhất người kể chuyện xưng “tôi” là tác giả trong truyện  Trên lầm dưới lỗi, hình thức thứ hai: Người kể chuyện xưng “tôi” là một nhân vật trong truyện: Gặp người bạn cũ...
Thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản có thể coi là tác phẩm văn xuôi tự sự quốc ngữ đầu tiên có hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất với kết cấu “lồng ghép” (hay hình thức “truyện trong truyện”). sau đó được các nhà văn quốc ngữ Nam Bộ phát triển lên những bước đáng kể về số lượng các tác phẩm xuất hiện hình thức người kể truyện ở ngôi thứ nhất vào các truyện ngắn như Ôi! Ái tình của Công Bình. Chứng tỏ được những bước tiến bộ của văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ về chủ thể người kể truyện so với truyền thống. Việc sử dụng ngôi thứ nhất kể truyện đã tạo nên sự gần gũi trong mối quan hệ giữa người kể truyện và người đọc. Nó cũng tạo nên độ tin cậy và gia tăng sức lan tỏa của truyện, dẫn người đọc đến mục đích của nhà văn là sự cảm thông, là bài học cảnh tỉnh được rút ra đằng sau đó.
4.2. Tình huống truyện
Tình huống trong truyện ngắn có một vai trò quan trọng vì “nó phải lựa chọn cho được cái tình thế bộc lộ ra nét chủ yếu của tính cách và số phận”. Nguyễn Đăng Mạnh cũng cho rằng: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống nào đó. Từ tình huống bật nổi một tính cách nhân vật, bộc lộ một tâm trạng”. Tình huống chính là “bối cảnh đặc biệt mà tác giả tạo ra để triển khai cốt truyện, để nhân vật hành động suy nghĩ… Tình huống được tạo nên bằng một sự kiện gây nên tác động mạnh mẽ của đời sống nhân vật”. Tình huống truyện sẽ giữ một vai trò nòng cốt trong việc đánh giá tác phẩm vì “đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay và vì thế là coi như xong một nửa”. Mỗi truyện ngắn chỉ chứa đựng một tình huống vì thế tình huống tiêu biểu phải cùng lúc thực hiện các nhiệm vụ nghệ thuật như gắn kết các nhân vật cùng tham gia một sự kiện, biến cố nào đó, bộc lộ quan hệ và tính cách nhân vật, thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX khi mà các thể loại văn học đang định hình và có sự đan xen, thâm nhập vào nhau giữa cái cũ và cái mới nên truyện ngắn quốc ngữ Nam Bộ in đậm dấu vết của buổi giao thời này. Truyện ngắn quốc ngữ Nam Bộ là sự kế thừa sáng tạo kết cấu tác phẩm theo quan điểm truyền thống bên cạnh những tiếp thu cách thức sắp xếp tình huống truyện theo hướng hiện đại.
 Trong truyện Gặp người gái đẹp, nhà văn đả kích những kẻ hay đi mượn danh người khác để làm sang cho mình. Thầy Mười Trương thấy cô gái có màu áo xanh xinh xắn nhận nhầm mình là nhà báo Bùi Thế Ngươn thì ra chiều đắc ý lắm vì phen này “hưởng đặng chút phấn hương” nhưng đến khi những cái cán dù đập loạn xạ vào thầy kèm theo lời sỉ mắng: “Thầy ỷ có ngòi bút sắt mà tưởng rằng tôi chẳng có cán cây dù hay sao?” thì thầy mới hiểu tác hại của việc nhận quàng người khác. Còn ở trong tác phẩm Trời phật công bình Trần Quang Nghiệp đã xây dựng tình huống truyện đầy kịch tính thể hiện cách nghĩ dân gian “ác giả ác báo”. Hai vợ chồng Hai Môn chuyên cướp giựt của người, giết người chẳng gớm tay lại giết lầm con trai mình sau nhiều năm thất lạc cũng sống bằng nghề ăn cướp. Và cậu ta cũng vừa thẳng tay giết một hành khách trên tàu để cướp của lại bị chính cha mẹ ruột của mình giết hại. Để rồi một cơn sấm sét qua hai vợ chồng Hai Môn cũng bị trời trừng phạt.
4.3. Ngôn ngữ truyện
Về nghệ thuật ngôn ngữ trong truyện ngắn Nam Bộ đậm chất đời thường. Đặc điểm nổi bật nhất trong  truyện ngắn Nam Bộ thể hiện ở ngôn ngữ nôm na, mộc mạc phù hợp với cách nói của người dân Nam Bộ, sử dụng nhiều từ địa phương mang tính giản dị, bình dân, dễ hiểu. Đọc truyện ngắn Nam Bộ  ta bắt gặp rất nhiều từ ngữ Nam bộ như: dang nắng, ló cẳng, coi thử, hồi nãy…(Vịt một cẳng); thiệt là, coi mòi, ngồi rục, hẹp té (Nói sông thị Nghè); qua, chớ, đặng, đã trộng, nhơn nghĩa, ngó theo ( Đồ hèn mạt); thót lên xe, hèn chi thiên hạ đồn rùm, lật đật hỏi (Bạch công tử gặp Hắc công tử); má biểu, ưng bụng, ứ hự (Cũng vì ham bằng cấp tú tài)… Đó là những từ “rặt” Nam bộ. Kể cả ngôn ngữ của người kể truyện, của các tác giả hay của nhân vật  đều thấm đượm màu sắc chân quê, dân dã. Nhiều từ địa phương nếu không dựa vào văn cảnh hoặc nếu không có vốn từ địa phương Nam bộ sẽ rất khó hiểu: “ tôi nghe nói còn mang nhiên chưa đáp được gì thời nghe có tiếng gõ ngoài cửa ( Ôi! Ái tình – Trần Quang Nghiệp). 
Lớp từ này mang màu sắc biểu cảm cao thể hiện sinh động cá tính, tâm lý nhân vật cũng như con người Nam bộ. Trong các truyện ngắn quốc ngữ Nam Bộ còn xuất hiện những từ xưng hô như: qua, bậu, ảnh, ổng, chỉ, mày, tao, mình….hay cách gọi tên theo thứ bậc: hai, ba, bốn như trong tác phẩm Thời sự tiểu thuyết của Huỳnh Phụng Minh các nhân vật được gọi tên theo thứ bâc thể hiện nét tư duy phóng khoáng của người dân Nam Bộ, không nặng về thể chế và các quy tắc giao tiếp, ứng xữ.
v Ngôn ngữ của đời sống hàng ngày 
- Có ổng ghé đây hay sao?... Vậy thì đễ ổng nghĩ, kêu làm gì?
Chủ nhà thiệt tình mà thành ra chơi ác, bước đi ngay vào trong vừa nói:
- Không, ổng chưa nghĩ đâu... ổng mới vừa uống nước rồi vào đây.
Chủ nhà đi khuất vào trong, anh hồi hộp quá, liệu thế không xong mới thò tay cắp nón của mình lên đội, tính lui êm ra ngoài, chẳng may vừa đứng dậy thì chủ nhà lại bước trở ra, theo sau là một người tuổi lối năm mươi, tướng tá mập mạp và mạnh mẻ.
(…) ý anh muốn kiếu mà lui ra nhưng cái xe sữa chưa xong, còn nằm chình ình đó mãi (…)
(Giả thiệt là ai – Trần Quang Nghiệp)
Khách đi rồi vợ chồng chủ tiệm mừng cúm, chồng bảo vợ rằng:
- Thần tài gõ cữa, nếu không gặp người khách sang quí này thì làm gì tiệm mình chịu nổi năm nay.
- Nhưng cái bình ấy không phải của mình.
- Mua được mà sợ mắc lắm, không còn lời mà ăn.
(Gặp người khách quý – Trần Quang Nghiệp)
- “Con nó lỡ dại lần thứ nhứt xin ông bớt giận, không lẽ một lần đạp cứt là một lần chặt chơn, để mai tôi lên nó coi thế nào rồi sẽ tính.
  Ông tuy giận nhưng thấy bà than thỉ cũng xiêu lòng nói:
-         Tự ý bà, tôi e bà lên nó không cho vào phòng nó mà mang xủ
(Văn minh quái gở - Việt Đông)
- “Cô Phi Tiễn còn dụ dự chưa quyết, bà già nói bồi thêm: - ông Cò- mi này là con một mà lại giàu nữa cô hai, thật cô có phước quá nên ổng mới thương cô, nên cậy tôi nói giùm. Cô Phi Tiễn nghe xong mới trả lời “ thưa má, má định đâu thì con theo đó, chỗ nào mà má ưng bụng thì con cũng vậy”
( Cũng vì ham bằng cấp tú tài- Thanh Nhàn)
v Phương ngữ Nam Bộ
- Má nè! Ông nội thằng nhõ ở bển thiệt dể quá, từ hồi con có mang thằng nhõ cho đến đẻ, ổng chẳng hề biểu cúng quảy mụ bà, bà mụ gì hết, vậy mà nuôi nó lớn nhanh như thỗi.
(Đốt lịch – Bình Trọng)
- “Trời chập chạng, một người đàn bà chỉ mặc một cái ướm, ngồi chài bài dưới đất, ru một đứa con dại độ hai tuổi đang nằm khóc u oa trong nôi một đứa nhỏ nữa, độ năm sáu tuôi, ở trần truồng, má cóp má xanh, hai chơn tay ốm nhom như ống sậy, đứng một bên mẹ nó khóc rên”
(Cười ra nước nước mắt – Thái Bình Dương)
Truyện ngắn Nam Bộ còn xuất hiện những từ ngữ là từ láy có tư cách ngữ pháp là động từ hay phó từ, thường quen dùng ở miền Nam như: Bươn bả, trèo trẹo, tùm lum, chộn rộn, chỏng cẳng, chèo queo, lơn tơn, trân trân, xơn xơn, lật đật, lính quýnh, chưng hửng, lẻo lự, ỉ ôi, tưng tiu, bệu bạo, bùm xùm, rần rần…có những từ láy rất quen thuộc với từ ngữ toàn dân nhưng cũng có những từ láy giới hạn phạm vi sử dụng. Trong một số trường hợp phải đặt vào văn cảnh mới giải thích được ý nghĩa của từ. Ví dụ như: Câu mâu, chừ bự, đỉ đảnh, nủng niểng, oi ỉ, xéo véo, trây trưa, ê hề, ngỏn ngoẻn, cùng quằn, kinh dinh… Những từ này thể hiện tính chất đặc phương ngữ, bởi vì chúng không có những đơn vị tương ứng về âm hay nghĩa ở các phương ngữ khác.

NHẬN XÉT CHUNG
TNQNNB thời kỳ nữa đầu thế kỷ XX đã thể hiện sự cách tân đậm nét so với nền văn học trung đại. Điều đó được thể hiện ở đề tài, chủ đề, kết cấu, ngôn ngữ, tình huống, cách xây dựng nhân vật, cốt truyện…
v Đề Tài Và Chủ Đề :
Trong giai đoạn này TNQNNB  không còn bị bó hẹp trong “trung, hiếu, tiết, nghĩa” mà  nó đa dạng, phong phú như cuộc sống diễn ra hằng ngày. Chung qui ở đề tài thế sự,  xã hội.  Tập trung phê phán những tiêu cực XH, những mối quan hệ giữa người với người, tình yêu và hôn nhân những câu chuyện về kinh doanh mua bán, phê phán lối sống hưởng lạc, những kẻ cam phận làm nô lệ của đồng tiền, sự tham danh lợi….
Trong tác phẩm “Gặp Người Gái Đẹp – Trần Quang Nghiệp” phê phán sự tham danh lợi của Thầy Mười Trương nhận mình là Bùi Thế Ngươn (tên viết báo có danh) ông mượn lấy danh thơm của người để hưởng chút phấn hương nhưng ròi danh thơm không thấy mà chỉ thấy cán dù và người ta đứng xung quanh đồng cười rộ.
Hay trong tác phẩm “Cũng Vì Ham Bằng Cấp Tú Tài – Thanh Nhàn” cũng phê phán lối sống tham danh lợi, những kẻ cam phận làm nô lệ của đồng tiền như ông bà Lê Đức Nghĩa và cô Lê Thị Phi Tiễn. Và “Văn Minh Quái Gỡ - Việt Đông”  nhân vật Đỗ Quang Trung và Nguyễn Thị Huê . Đỗ Quang Trung vì “tiền tài đàn xa vợ đầm, vì ham chữ đồng quên người thệ hải minh sơn là cô hai Thành”
v Cốt Truyện :
 Trong văn xuôi tự sự trung đại chú trọng đến hành động, sự kiện với những nội dung cốt yếu mà không phát triển dong dài như trong tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại, ít lưu ý tới việc miêu tả trạng thái tâm lý nhân vật. Đến đầu TK XX số phận và tính cách nhân vật được thể hiện qua những sự kiện, biến cố và qua diễn biến nội tâm một cách sâu sắc. Như tác phẩm “ Ôi ! Ái Tình – Công Bình” với cốt truyện thật hấp dẫn ( thầy V.D, Lương Kỳ, Lê Thị con của ông Hương Cả, S.N) …
Cũng trong giai đoạn này TNQNNB  xuất hiện những truyện không có cốt truyện hay gọi là “cốt truyện tâm trạng” mà trong văn học trung đại không thấy xuất hiện. như tác phẩm “Giấc Mộng – Bửu Đình” truyện không nói đến một mâu thuẫn, hay một sự việc ly kỳ nào mà chỉ nói đến giấc mơ của một người thích cảnh thiên nhiên và từ cuộc sống hiện thực đúc kết thành ý kiến của riêng mình, đưa ra quan niệm sống như thế nào là phải là tốt.
v Cách Xây Dựng Nhân Vật :
TNNB trong giai đoạn này miêu tả nhân vật một cách cụ thể, gắn với những cái tên rất cụ thể, rất riêng, rất đơn giản và rất đời thường (hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong văn học trung đại đang dần được loại bỏ) như : Ngô Minh Thẹo (Cũng Vì Ham Bằng Cấp Tú Tài ), Lê Thị, Lương Kỳ, Thầy V. D (Ôi Ái Tình), Xoài, Mít (Tiếu Đàm), Thầy Mười Trương (Gặp Người Gái Đẹp), Lê Văn Nử (Trên Lầm Dưới Lỗi)….hay những nhân vật không có tên như : Lão Ăn Mày, Cái Áo Màu Xanh, Tên Shop Phơ, Hay Mụ Vợ…..
Trong tác phẩm “ Trên Lầm Dưới Lỗi – Trần Quang Nghiệp” nhân vật Lê Văn Nử được miêu tả : “anh nhỏ người, gương mặt sáng sủa, hai con mắt như sao, tiếng nói của anh rõ ràng mà chẩm rãi làm cho người trong tòa đều nghe đặng hết, không mất một tiếng nào”
Hay nhân vật Nguyễn Thị Huê con của ông Hội Đồng Phán trong tác phẩm “Văn Minh Quái Gỡ - Việt Đông” được miêu tả một cách cụ thể “cô hai Huê năm nay 20 tuổi, cô dong dải người, miệng nói có duyên, nước da ngâm ngâm, người ta kêu là nước da bánh ít”
Khi miêu tả về cảnh nghèo khổ, đói rách thì Thái Bình Dương miêu tả hình ảnh người đàn bà và lũ trẻ quay quần “ trời chập chạng, một người đàn bà chỉ mặc một cái ướm, ngồi chài bài dưới đất, ru một đứa con dại độ 2 tuổi đang nằm khóc u oa trong nôi, một đứa nhỏ nữa, độ 6,7 tuổi, ở trần ở truồng, má cóp má xanh, hai chân tay ốm nhom như ống sậy, đứng một bên mẹ nó khóc rên”. (Cười Ra Nước Mắt).
Một đặc điểm nữa khi xây dựng hình tượng nhân vật trong TNQNNB Tác giả chú trọng đến mọi tầng lớp từ thành thị đến nông thôn, từ những người trí thức đến những người nông dân nghèo khổ và đủ các loại ngành nghề như: Dạy học, làm nông, buôn bán, ăn mày, ăn cướp, bác sỹ, thợ mọc, thợ may…..
Đồng thời các nhà văn bước đầu thành công khi miêu tả nội tâm nhân vật “Ôi ! Ái Tình – Công Bình”
Nhân vật Lê Thị được tác giả miêu tả với tâm trạng rất phức tạp (vui, buồn, lo lắng, đau đớn, )  tất cả những tâm trạng đó được thể hiện qua cái cử chỉ “âm thầm, lặng lẽ nhìn nhau”, để rồi cái cử chỉ ấy đã lột tả hết những gì muốn nói của một người con gái đang yêu và cũng chính cái sự im lặng ấy đã diễn tả, bày tỏ hết được nổi lòng uất nghẹn, đau đớn của người vợ khi bị chồng phụ rẫy trong khi cô hết mực thương yêu chồng con. Tác giả để cho nhân vật của mình sống trong im lặng nhưng thật ra đã nói, đã bày tỏ rất nhiều về tình cảm, cảm xúc của nhân vật. Điều đó chứng tỏ rằng nghệ thuật  miêu tả nội tâm nhân vật của những nhà văn trong giai đoạn này thật sâu sắc, tinh tế và độc đáo.
v Ngôn Ngữ :
Ngôn ngữ trong TNQNNB thiên về ngôn ngữ đời thường, gần gũi với nhân dân không trau truốt, ước lệ hay tượng trưng như trong Văn Học Trung Đại . TN NB thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi chủ trương của Trương Vĩnh Ký đó là dùng tiếng “An nam ròng” . Nguyễn Chánh Chiếu cũng đã từng viết : “Nay tôi ngụ ý soạn một bổn nói về việc trong xứ mình dùng tiếng tầm thường cho mọi người hiểu đặng”. Điều này thể hiện được sự cách tân trong việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ sáng tác của các nhà văn.
Ngoài ra ta còn nhận thấy TNNB thời kỳ này sử dụng từ ngữ mang tính địa phương đậm nét  như : hồi nảy, ló cẳng..(Vịt Một Cẳng), má biểu, dòm, ứ hự…(Cũng Vì Ham Bằng Cấp Tú Tài), hay những từ xưng hô như : ổng, bậu, mầy, tao….
Sử dụng những từ láy đậm chất dân gian, mộc mạc, rất nam bộ như : Chình ình, lính quýnh, chưng hửng, lơn tơn, lật đật, lẻo lự… Điều này gợi nên sự gần gũi giữ người viết với độc giả.
Với phong cách viết tả thực và lối viết nôm na, giản dị của các tác giả thời kỳ này đã thoát khỏi cách viết câu biền ngẫu, đối xứng thời trung đại. Nhiều câu văn xuôi quốc ngữ thời kỳ này sáng rõ, mạch lạc đưa người đọc vào những sự kiện, tình huống thực tại gần gũi với sinh hoạt thường ngày của người dân Nam Bộ.
“Cách một tháng sau, nghe phong phanh bà chủ lấy sốp – phơ của mình, tiếng đồn rực lên,có kẻ tọc mạch, muốn tới tận nơi coi, sợ người ta bịa đặt nói láo” (Bà Chủ Nhà Và Tên Shop-Phơ – Vũ Văn Đang)
Hay đoạn văn trong tác phẩm “Gặp Người Khách Quý – Trần Quang Nghiệp” đã viết: “Phải, cái bình này đã có hơn 4000 năm rồi, nội tiệm tôi đây chỉ có nó là mắc hơn hết thảy, nếu ông bằng lòng mua thì tôi tính giá vừa phải cho ông.”
v Kết Cấu Và Nghệ Thuật Xây Dựng Tình Huống Truyện :
Hầu hết các truyện ngắn trong giai đoạn nửa đấu thế kỷ XX đều có kết cấu chặc chẽ, tình tiết câu chuyện đưa ra một cách tự nhiên, đặc biệt trong truyện “Ôi! Ái Tình – Công Bình” đã thể hiện một kết cấu truyện khá hiện đại đó là  “truyện lòng trong truyện” mở đầu câu truyện là một mẫu tin trên báo, sau đó tác giả ngược dòng thời gian kể lại, có lúc tác giả dừng câu truyện lại chen vào những lời bình phẩm, nhận xét về nhân vật và kể tiếp. Điều đó giúp cho tác giả bày tỏ hết được tình cảm, quan niệm, suy nghĩ của mình cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về nhân vật cũng như tình cảm của tác giả gửi gấm trong tác phẩm.
Và kết thúc những câu chuyện thường ở dạng mở làm cho người đọc phải suy nghĩ và nghiền ngẫm về thế thái nhân tình. như “ Giấc Mộng”, “Giả Thiệt Là Ai”, “ Trên Lầm Dưới Lõi – Trần Quang Nghiệp” (chuyện như vầy….bây giờ xin các ngài hãy xữ làm sao thì xữ. ….nếu các ngài làm quan tòa thì các ngài sẽ xữ làm sao???.
Có những câu truyện kết thúc mang màu sắc “bi-hài” như : “Gặp Người Gái Đẹp, Giả Thiệt Là Ai, Chủ Nhà Phong Lưu”(vậy thì ông cũng một kiểu như tôi -  cũng bởi tại ta phong lưu quá)
Tình huống truyện khá đặc sắc, tạo được cảm giác bất ngờ gây hứng thú cho người đọc.  Đó là tình huống trong tác phẩm “Ôi Ái Tình – Công Bình”  tác giả để cho nhân vật Lê Thị tận mắt chứng kiến và nghe những lời nói, cử chỉ, hành động của Thầy V.D người chồng của chị phản bội chị ngoại tình với một người đàn bà khác. Lúc ấy tâm trạng chị đau đớn, rối bời, và tuyệt vọng. sự im lặng, ra về của chị đã gieo vào trong lòng độc giả một sự cảm thông và cũng chính tình huống này làm cho đọc giả hiểu hơn về nhân vật (vì bởi thương chồng con nên chị im lặng chỉ biết khóc không nói được lời nào).
ð Tóm lại TNQNNB trong giai đoạn đầu của thế kỷ XX có những bước cách tân đáng kể so với nền Văn Học Trung Đại về nội dung cũng như nghệ thuật. Đặc biệt ngôn ngữ bình dân, giản dị, đời thường, tiếng “an nam ròng” mang đậm dấu ấn Nam Bộ đã được thể hiện trong hầu hết các tác phẩm truyện ngắn trong giai đoạn này. Tuy nhiên nó chịu ảnh hưởng của nền văn hóa phương đông và phương tây hòa trộn với nhau tạo nên một xã hội rói ren tạo nên mãng đề tài phong phú và đa dạng, cốt chuyện đầy kịch tính kiểu Phương Tây.