“Văn học là nhân học” (M.
Gorky), xét cho cùng cái đích đến của nhà văn trong mọi tác phẩm văn chương
chính là con người. Con người với tất cả đời sống tự nhiên, đời sống xã hội,
thân phận và cuộc đời chính là đối tượng và cũng là nội dung đặc trưng cơ bản
nhất của văn học. Vấn đề con người là một vấn đề trung tâm của văn học. Tác
phẩm có thể không có nhân vật người, nhưng nó phải là câu chuyện về cõi nhân
sinh. Quan niệm nghệ thuật về con người ở các nhà văn thường không giống nhau,
nhưng trong từng giai đoạn văn học nó có điểm tương đồng, đánh dấu trình độ
chiếm lĩnh con người của từng thời kì. Giai đoạn 1954-1964 đánh dấu cột mốc
quan trọng trong lịch sử dân tộc, giải phóng miền Bắc đi lên xây dựng xã hội
chủ nghĩa và tiếp tục đấu tranh thống nhất cả nước. Đề tài và chủ đề trong văn
học được mở rộng. Nét đặc trưng cơ bản trong quan niệm con người của văn học giai
đoạn này là con người trong sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung. Điều đó
được cụ thể hóa qua truyện ngắn Mùa Lạc của Nguyễn Khải.
Viết Mùa lạc, mặc dù tác
phẩm có tính thời sự, nhưng Nguyễn Khải không làm công việc minh họa giản đơn
những chủ trương chính sách của nhà nước mà nhà văn đi sâu vào việc phản ánh
những số phận con người, nhất là những con người bất hạnh nhỏ bé. Những con
người ấy biết vươn lên để tự đổi đời trong một môi trường lao động tập thể,
trong sự đổi đời chung của đất nước, dân tộc. Từ tiêu chí đó, Nguyễn Khải đã
bày tỏ một quan niệm, một niềm tin vào cuộc sống, nếu con người biết thương yêu
nhau chân thành, cùng nhau vượt qua những khó khăn gian khổ, họ sẽ được hạnh
phúc, kể cả những ai đã trải qua những năm dài bất hạnh. Nhân vật chính của
truyện là Đào với số phận nghiệt ngã và những nét tính cách rất đáng chú ý đã
để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Thông thường, nhân vật
chính nếu là nữ, phần nhiều là những cô gái đẹp vì cái đẹp dễ gây xúc cảm và
thương cảm cho người đọc. Nhưng nhân vật Đào của Nguyễn Khải không thuộc mẫu
người đó, dường như tác giả muốn thể hiện nhân vật của mình còn bất hạnh cả trong
hình thức. Đào là một phụ nữ xấu về dáng
vẻ, ít duyên phải chịu cảnh quá lứa lỡ thì: “hai con mắt hẹp và dài…gò má cao đầy tàn hương, những nét thiếu hòa hợp trên
khuôn mặt càng làm trở nên thô, càng đỏng đảnh”, “cặp chân ngắn, hai bàn tay có
những ngón rất to”. Nhưng bù vào thua thiệt hình thức, lời ăn tiếng nói của
Đào biểu hiện một con người có bản lĩnh. Đào thuộc nhiều ca dao, tục ngữ và vận
dụng rất tài vào cách ăn nói thường ngày. Có lúc cười cợt mà thực “trâu quá xa mạ quá thì, hồng nhan bỏ bị còn
gì là xuân”, có lúc chua ngoa “Huệ
thơm bán một đồng mười, Huệ tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng”.
Con người ấy, trong quá
khứ riêng tư, lại chịu một số phận hẩm hiu, bất hạnh. Đào lớn lên trong một gia
đình phải vất vả kiếm sống, có chồng nhưng cũng như không, chồng nợ nần cờ bạc,
bỏ nhà đi rồi ốm chết. Có được một mụn con, tưởng rằng là niềm an ủi, nhưng quá
cơ cực, đứa con sinh bệnh tật rồi cũng bỏ chị.
Từ đó, Đào phải sống lang bạt nhiều nơi để kiếm sống một cách vất vả “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”, tuổi
trẻ tàn phai theo năm tháng. Đào ước mơ có được một gia đình nho nhỏ như bao
nhiêu người khác: “Cũng có lúc ốm đau,
nằm nhờ nhà người quen, bưng bát cơm nóng nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ trước
đây mình cũng có một gia đình, một đứa con sớm lo việc sớm, tối lo việc tối”.
Quen với cái khổ, Đào chỉ nghĩ cuộc đời mình “do số kiếp đã định thể”. Đào
không hy vọng gì về một sự đổi thay, “muốn
chết nhưng đời còn dài nên phải sống”.
Đào lên tới Điện Biên rồi
ở lại đó với một tâm trạng mỏi mệt, muốn “quên
đi những ngày đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao thì không cần rõ” và có
lẽ sự bất cần ấy mà Đào sốn “táo bạo và
liều lĩnh, ghen tị với mọi người và hờn giận cho bản thân mình”. Dù thường
đanh đá chua ngoa, khó chịu, luôn có ý chọc tức người khác, nhưng trong thâm
tâm, Đào vẫn khao khát một cuộc sống có tình yêu, có hạnh phúc. Được làm việc
gần Huân, một thanh niên trẻ, đẹp trai, đầy sức sống. Đào không dám nghĩ đến
chuyện yêu Huân, nhưng “nhìn đôi tay cuồn
cuộn những thớ thịt cháy nắng đỏ rực của Huân thoang thoảng bên cạnh, chị lại
bừng bừng thèm muốn một cái gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời mình chưa
phải là tắc hẳn”. Bởi những bất hạnh của bản thân đã khiến con người Đào có
hai mặt trái ngược: vừa có ý thức về mình, khao khát hạnh phúc nhưng lại đầy
mặc cảm về thân phận, không hy vọng gì ở ngày mai.
Được tựa mình trong một
hoàn cảnh mới, trong một môi trường lành mạnh là nông trường Điện Biên, giữa
những con người giàu tình ái và lòng tin ở con người Đào có niềm vui trở lại.
Đào tràn trề hy vọng và dự tính cho tương lai khi Dịu, anh trung đội trưởng góa
vợ, ngỏ lời cầu hôn với mình. Tác giả tìm cho Đào một người yêu phù hợp, đã đem
đến cho Đào một hạnh phúc mà tưởng chừng như không bao giờ Đào có được. Đoạn
văn thể hiện thái độ của Đào khi nhận thư Dịu là một đoạn hay, phân tích tâm lý
sắc sảo, thực sự có giá trị nghệ thuật. Đầu tiên Đào tức giận, mới gặp có mấy
bận mà “ông trung đội trưởng già” ấy dám ngỏ lời táo bạo vậy sao? “đọc được mười dòng chị giận dữ tưởng như có
thể xé vụn từng mảnh được, người ta coi thường chị đến thế ư”. Nhưng lạ lùng
thay, chỉ phúc chốc sau đó, “khi gập lá
thư lại thì một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra như mạch nứơc ngọt rĩ thấm vào
những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ dạt dào không thể
nén lại nỗi khiến người chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng, nhưng trong mi
mắt lại mọng đầy nước chỉ định trào ra”. Hạnh phúc lớn quá, Đào không ngờ
được, sung sướng đến chảy nước mắt vì vẫn có người quan tâm, thương yêu đến
mình. Bức thư của Dịu đã “thức tỉnh nỗi
khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén” từ lâu.
Trong tâm trạng yêu thương xao xuyến ấy, Đào nghĩ về tương lai rất thực, rất
quí giá và thân ái. “Chị hình dung ra
cách đối đãi của đứa con riêng của người rồi đây sẽ gọi là chồng”, “mình quí
nó, tất nó quí mình”.
Chính vì tình yêu ấy đã
làm cho Đào thay đổi, dịu dàng sâu lắng và chan hòa với mọi người hơn. Đào đã
tìm thấy một cách sống tốt và một niềm hạnh phúc chân chính. Đào ở lại Điện
Biên theo tiếng gọi cuộc sống và tình yêu “Em
nghĩ mãi rồi anh ạ, em định không về dưới xuôi nữa, em ở lại đây mãi với các
anh”.
Với tác phẩm Mùa lạc, nhà
văn Nguyễn Khải đã đặt ra được nhiều vấn đề cuộc sống và cũng đã bày tỏ quan
niệm của mình theo hướng tích cực: giải pháp để giải quyết số phận cá nhân và
khát vọng hạnh phúc của con người là ở sự hòa nhập với tập thể và cuộc sống mới
đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển hóa của con người đi từ cái tôi
riêng lẽ, cô đơn hòa vào cuộc sống chung. Môi trường tập thể đóng vai trò quan
trọng chủ động đón nhận và cảm hóa, nâng đỡ những con người riêng lẻ, cô đơn,
giúp cho họ tìm thấy niềm vui, hạnh phúc. Cùng với sự vươn lên trong cuộc đời
của nhân vật Đào ta có thể thấy được ý nghĩa triết lý của tác phẩm dù có nghiệt
ngã đến đâu, con người cũng không chịu khuất phục trước hoàn cảnh: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh
phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường
cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua
những ranh giới ấy...”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét