Lưu Hiệp (466-532) tự
Ngạn Hòa, người Đông Hoàn nước Lương, là người tinh thông Phật giáo, am hiểu
Nho học, văn chương của ông lấy tư tưởng Nho gia làm cơ sở. Nếu nói đến trước
tác có tầm cở, có ảnh hưởng lâu dài trong văn chương nhiều thời đại thì phải
nói đến Văn tâm điêu long của ông.
Đây là trước tác kết tinh của học vấn, trí tuệ và tâm huyết của Lưu Hiệp, là
một kiệt tác vừa có giá trị cao về lí luận vừa có nhiều đặc sắc về văn chương. Có thể nói Văn
tâm điêu long là tác phẩm lý
luận văn học đầy đủ đầu tiên của lý luận văn học Trung Quốc. Tác phẩm dường như
đề cập đến tất cả các vấn đề thuộc về văn học: từ nội dung và hình thức đến thể
loại, phong cách, lịch sử phát triển….ông còn dành tâm lực để bàn về sáng tạo
trong văn học. Các thiên tuy được viết ngắn gọn nhưng các vấn đề nêu ra đều
được Lưu Hiệp cố gắng giải quyết thấu đáo và triệt để.Trong năm mươi thiên của
tác phẩm, thì Thần tứ là thiên chuyên bàn về cấu tứ trong
sáng tác, bàn đến vấn đề “trí tưởng tượng sáng tạo”.
Bàn về vấn đề
sáng tạo trong văn học, theo quan điểm của nhà triết học Aristote trong Nghệ thuật và thơ ca thì vấn đề “hình
dung cốt truyện” được hiểu thiên về khả năng tư duy của lý tính. Nhà thơ phải
vận dụng những hiểu biết của mình để mở rộng trường liên tưởng, tưởng tượng
trong khi xây dựng tác phẩm. Thành công của tác phẩm trước hết bắt nguồn từ mối
quan hệ giữa “hình dung” và sự trải nghiệm tưởng tượng của nhà thơ, “hình dung”
và cảm xúc, tài năng cá nhân, “hình dung” và sự xây dựng bố cục. Tư tưởng này
của Aristote được các nhà lý luận văn học phương Tây khái quát thêm một bước
nữa khi nói về trí tưởng tượng sáng tạo và cấu tứ của tác phẩm.
Ở phương
Đông, Lục Cơ đời Tấn trong Văn Phú
cũng đã đề cập đến vấn đề này. Ông viết: “Đầu
tiên, thu cái nhìn lại không thấy gì nữa và bỏ tất cả ra ngoài tai, trầm tư suy
nghĩ và tìm hình tượng trong tâm trí của mình, tinh thần rong ruổi nơi tám cõi,
tâm hồn chơi vơi chốn nghìn trùng. Rồi thì, tình mờ mờ thành sáng tươi hơn; vật
rực rỡ mà kéo nhau tới. Rót những giọt ngôn từ Chư
tử quý giá; ngậm lấy ngụm nước Lục Kinh ngát hương. Thả mình trôi tới trời cao
thẳm; tắm mình ngụp lặn chốn suối khe. Lúc ấy, từ chìm buồn vui mất, như thể cá
mắc câu mà rời khỏi vực; văn chương nối nhau bay ra tựa chim trúng tên rơi
xuống từ tầng mây thẳm; trong chớp mắt có thể quán thông kim cổ, trong phút
giây có thể bốn biển rong chơi”. Lục Cơ nhìn vấn đề cấu tứ thật đơn giản.
Tất cả bắt đầu từ ý thức tìm tứ của nhà văn. Để tìm tứ, nhà văn phải diệt trừ mọi
phiền nhiễu bên ngoài, tập trung tư tưởng vào những sự vật đã quen thuộc, để
trí tưởng tượng tự do bay bổng. Mọi sự vật trước còn mông lung, nhưng khi tứ
kéo tới thì dần trở nên rõ ràng, sáng sủa. Tứ sẽ giúp nhà văn tìm từ để diễn
đạt. Nói tóm lại, cấu tứ của nhà văn nằm trong mối quan hệ của ý và vật, ý và
văn. Đến Văn tâm điêu long của Lưu
Hiệp, cấu tứ được xem xét ở nhiều góc độ quan hệ khác nhau. Ngoài mối quan hệ
“thần” – vật, “thần” – ngôn ngữ phát triển từ Lục Cơ, thiên Thần tứ còn đặt cấu tứ, tưởng tượng sáng tạo
trong mối quan hệ với tài năng, cảm xúc của nhà văn. Quan niệm của Lưu Hiệp về
vấn đề cấu tứ, tưởng tượng sáng tạo đã gặp gỡ với quan niệm của Aristote. Tuy
nhiên, những khái niệm phương Đông mà Lưu Hiệp sử dụng để trình bày khiến cho vấn
đề lý luận của ông không dừng lại ở phạm vi tư duy lý tính.
Mở đầu chương Thần tứ Lưu Hiệp viết: “Người xưa nói: “Hình tại nơi sông biển, tâm tại nơi cửa khuyết. Đó là
nói về thần tứ vậy. Khi cấu tứ văn chương, cái thần (tức trí tưởng tượng) bay
đi rất xa. Bởi vậy, lúc lặng lẽ tập trung suy nghĩ, dòng tư duy có thể tiếp xúc
tận ngàn năm, khi đổi thay nét mặt ngắm nhìn, thì ánh mắt như thấy được vạn
dặm. Ngâm vịnh lên, âm thanh như nhả ngọc phun châu, tưởng tượng nhìn trước mắt
như sắc màu mây gió”. Theo Lưu Hiệp, khi tâm hồn đạt đến sự nhập thần, đạt
đến trạng thái “không” như quan niệm của Phật, Lão thì cũng là lúc tuệ nhãn
được khai thông. Trí tưởng tượng của nhà văn sẽ vượt qua những trở ngại về
không gian, thời gian, có thể tương giao được với ngàn xưa, thông tiếp với ngàn
sau. Mọi sự vật, sự biến hóa kỳ ảo của giới tự nhiên dường như hiển hiện trước
mắt. Khi ấy, ý, tứ sẽ ùa đến một cách tự nhiên. Chính sự tưởng tượng tạo ra
sáng tạo trong văn học, Lưu Hiệp cho rằng: “Toàn
tưởng tượng thì dễ hay dễ lạ, song ngôn từ phải thực thì lại khó héo khó tươi.
Bởi thế nên ý nảy sinh từ ý tứ, lời nảy sinh từ ý, chặt chẽ thì khít khao vô
cùng mà sơ lậu thì tản xa đến ngàn dặm”.
Lưu Hiệp luôn
ý thức về mối quan hệ giữa thế giới tinh thần của nhà văn và sự vật khách quan.
Khi tiến hành cấu tứ, khi nhà văn ý thức đưa mình vào thế giới của tưởng tượng
thì lĩnh vực hoạt động tư duy thật vô cùng to lớn. Không gian được mở rộng vô
biên, thời gian được nối dài vô hạn. Nhưng thế giới tinh thần của nhà văn và sự
vật khách quan vẫn kết hợp làm một; hoạt động tư duy của nhà văn trước sau vẫn
liên hệ chặt chẽ với những sự vật cụ thể. Tách khỏi “vật” thì “thần”
không có chỗ dựa, việc tưởng tượng, hư cấu cũng không có cách nào tiến hành
được. Đây là một đặc điểm nổi bật của tư duy hình tượng. Quan niệm này của Lưu
Hiệp không khác quan niệm duy vật của phương Tây cổ và hiện đại. Lý luận phương
Tây từ xưa đến nay đều khẳng định nguồn gốc của văn nghệ là hiện thực khách
quan, ý thức văn học của nhà văn được xây dựng trên cơ sở hiện thực cuộc sống
của nhà văn. Hiện thực khách quan và ý thức văn học của nhà văn luôn có mối
quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Vốn sống ấy được tích lũy qua sự trải
nghiệm, qua những chiêm nghiệm trong cuộc đời và cả bằng sự thu nhặt từ sách vở
thánh hiền. Mặt khác, nhà văn cũng cần phải nắm bắt được toàn bộ những tồn tại
khách quan bên ngoài mình, sống sâu sắc với nó. Đó là những tiền đề để tứ thơ
nảy sinh.
Theo quan
điểm của Lưu Hiệp, nhà văn phải nuôi dưỡng cái tâm. Để có được điều đó nhà văn
phải “sơ thuộc ngũ tạng, tảo tuyết tinh thần” làm cho tâm nhẹ lâng lâng và có
thể bừng sáng trong trí tuệ. Nhà văn phải học tập, nghiên cứu, tích lũy tri
thức. Văn có nguồn gốc từ đạo, phải lấy thánh nhân làm khuôn mẫu, hình thể,
phải nương tựa vào Lục kinh, châm chước thêm bằng các chi lưu của kinh, biến
hóa theo phong cách của Ly Tao. Ngoài ra, để có thể phát huy tài năng, nhà văn
cần có sự hiểu biết không chỉ thông kim bác cổ mà còn “thượng tri thiên văn, hạ
tri địa lý, trung tri nhân sự”. Có như thế trí tưởng tượng mới có thể bay cao,
bay xa, văn chương mới sáng tạo phong phú. Nhà văn còn phải nghiền ngẫm lại
những điều mình đã trải qua, rút kinh nghiệm từ những người đi trước để tiếp
thu nguồn sáng trí tuệ. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo thì đây là giai đoạn “trực
chỉ nhân tâm” để có thể đột khởi những ánh sáng kì ảo trong tâm tưởng. Và nhà
văn phải luôn biết dựa vào kinh điển để trau dồi lời văn cho thích hợp. Nhưng
để lĩnh hội được những thâm ý sâu xa trong kinh điển của cổ nhân người đọc cần
phải để tâm “hư tĩnh”, phải quên mình trước những trang sách. Có được tất cả
những điều trên thì khi thả mình vào tưởng tượng nhà văn sẽ nhanh chóng tìm ra
tứ thơ. Khi tứ thơ đến cũng đồng thời là lúc ngôn từ kéo về. Từ đó tạo nên tính
sáng tạo độc đáo trong văn học.
Bàn về nghệ
thuật viết văn, Lưu Hiệp đề cao tính giản dị - giản dị từ cách dùng từ đến việc
tìm ý tưởng. Ông cho rằng lời lẽ bình dị cũng có thể chứa đựng những ý nghĩa
thâm thúy, những điều đơn giản tầm thường cũng có thể làm nảy sinh những tư
tưởng mới lạ, độc đáo. Ngay ở tư tưởng này Lưu Hiệp đã thể hiện mình là một
người sống sâu sắc với cuộc sống và nhiều trăn trở với nghiệp văn chương. Văn
không phải là cái gì cao xa, vượt tầm với của con người.
Ông cho rằng:
“Nếu học cạn mà cứ uổng công kéo dài, tài sơ mà cứ uổng công viết vội, như vậy
mà ra được thành phẩm tốt thì xưa nay chưa từng nghe. Bởi vậy khi nghiền ngẫm
để tìm văn tứ thường có hai điều khó: suy tư tắc thì ý nghèo nàn, ngôn từ nhiều
thì văn tạp loạn. Thế nhưng, kiến thức rộng sẽ thành lúa gạo cứu được cái
nghèo, định hướng nhất quán sẽ thành phương thuốc trị được cái loạn”. Theo Lưu
Hiệp, nhà văn cũng phải biết dừng bút đúng lúc nếu cảm thấy lời văn của mình
không theo kịp những ý nghĩa thâm diệu, những cái đẹp tinh tế. Nếu cứ cuốn mình
theo nó nhà văn sẽ cảm thấy bất lực, và đôi khi làm giảm giá trị của tác phẩm.
Chỉ có thiên tài mới có thể phô diễn được những điều tuyệt diệu, và những bậc
tuấn tài phi phàm mới có thể thông suốt được những điều tinh mật. Điều này hoàn
toàn thống nhất trong tư tưởng của nhà nghiên cứu này, bởi ông luôn đề cao sự
sáng tạo cá nhân.
Với thiên Thần tứ, Lưu Hiệp đã đặt ra
vấn đề về trí tưởng tượng và sáng tạo trong văn học. Những quan điểm của ông
rất xác đáng và đóng góp quan trọng cho văn học. Có thể nói Văn tâm điêu long là một trước tác đầy
đủ về lí luận văn học phương Đông sớm nhất, có địa vị quan trọng và giá trị bất
hủ trong lịch sử văn hóa không chỉ riêng của Trung Quốc mà còn ảnh hưởng sâu
rộng đến nhiều quốc gia khác trong đó có Việt Nam .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét