Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

TÁC DỤNG CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC - NGUYỄN DỮ

1. Thỏa mãn nhu cầu tưởng tượng và đời sống tâm linh
1.1. Thỏa mãn nhu cầu tưởng tượng lãng mạn
 Con người cần đến tưởng tượng để thăng hoa và lạc quan hơn trong cuộc sống. Để thoát ra khỏi hiện thực cuộc sống chật chội tù túng, các nhà văn đã dùng nhiều phương thức để thoát ly. Có một con đường giúp người ta thỏa mãn mong muốn ấy đó chính là thoát ly vào thế giới kỳ ảo. Bước vào thế giới kỳ ảo, chính là cách để nhà văn thỏa mãn được những khát khao giải phóng cá tính và giải phóng tự do cá nhân của con người. Bước vào thế giới kỳ ảo còn là nơi để nhà văn cân bằng đời sống tinh thần. Ở Truyền kỳ mạn lục, sự tự do không bị ràng buộc về ranh giới của không gian, thời gian phần nào thể hiện nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần mà thực tại nhỏ hẹp không thực hiện được. Đó còn là khát vọng giao hòa tuyệt đối giữa cá nhân với vũ trụ, là ước vọng xóa bỏ những đường ranh của thế giới khái niệm luôn ràng buộc con người, thường gây đau khổ nhiều hơn tạo ra hạnh phúc. Trong đó có sự nới rộng không gian sinh hoạt sang một cảnh giới khác là thế giới phi hiện thực. Trong thế giới phi hiện thực, những tình huống của cuộc sống con người có thể xảy ra ở bất kỳ đâu: âm phủ, cõi trần, cõi yêu ma, cõi quỷ thần, cõi tiên…. Dù là không gian phi hiện thực nhưng sự kết nối vẫn rất dễ dàng vì không có sự ràng buộc về thời gian. Nhân vật có thể đi từ không gian thực sang không gian ngoài thế tục. Từ Thức trong Từ Thức gặp tiên là sự chuyển tiếp từ không gian thực đến không gian ngoài thế tục của cảnh tiên, hay Chuyện Người con gái Nam Xương, Truyện đối tụng ở Long Cung là sự mở rộng không gian sang một thế giới khác, chốn long cung. Nhiều khi nhân vật cũng lạc bước xuống thế giới của cỏi âm như Tử Văn trong Truyện chức Phán sự đền Tản Viên, viên quan họ Hoàng trong Truyện yêu quái ở Xương Giang bị hồn ma kiện dưới âm phủ nên bị bắt xuống để xét xử, Lý Thúc Khoán trong Truyện Lý tướng quân được một người bạn là Phán quan đưa xuống âm phủ xem cảnh xét xử cha mình…
Thời gian trong Truyền kỳ mạn lục cũng được nới rộng một cách đặc biệt. Sự gặp gỡ giữa các nhân vật nhiều khi không có sự ràng buộc của thời gian. Trình Trung Ngộ gặp và yêu Nhị Khanh, một hồn ma đã chết cách đó nửa năm. Chàng thư sinh Hà Nhân yêu hai cô gái vốn là tinh hoa của một vọng tộc suy tàn cách đó hai mươi năm.
Mặt khác, mối quan hệ tình yêu, hôn nhân giữa các chàng trai và các hồn ma trong tác phẩm diễn ra một cách thoải mái, dễ dàng và đơn giản với sự hiện diện của yếu tố tính dục. Đó có thể là khát vọng giao hòa tuyệt đối giữa cá thể với vũ trụ được thể hiện qua ngôn ngữ tình yêu và ngôn ngữ tình dục. Bởi tình yêu trong truyện Truyền kỳ là kiểu tình yêu vô điều kiện giống như những khoảnh khắc hòa nhập ngắn ngủi nhưng tuyệt đối giữa con người với cái vô cùng vô tận của vũ trụ.
Trong thế giới khác thường, kỳ lạ ấy những câu chuyện về tình đời, tình người được tác giả gởi gắm một cách tài tình thông qua những biến cố, sự kiện của tác phẩm. Đó chính là sức hấp dẫn của truyện mà hiệu quả nghệ thuật của nó được tạo ra từ chính khả năng tưởng tượng độc đáo của nhà văn.
Yếu tố kỳ ảo có tác dụng như một chất kích thích giúp nhà văn phát huy cao độ trí tưởng tượng của mình trong sáng tạo nghệ thuật. Đồng thời, nó còn giúp nhà văn thoát ly ra khỏi cuộc sống hiện thực để tìm vào chốn mộng ảo, cõi liêu trai.
1.2. Thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh
Đời sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần. Ở đó con người có niềm tin vào cái thiêng. Và ở đó con người sống chủ yếu với phần tâm linh trong mình và được thư giãn tinh thần, được cởi bỏ phiền muộn âu lo, cầu những điều tốt đẹp cho mình và cho mọi người. Chính vì thế, sự có mặt của yếu tố kỳ ảo trong văn học không chỉ thỏa mãn nhu cầu tưởng tượng của nhà văn mà còn thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người. Đời sống tâm linh của người qua những biểu hiện: niềm tin vào thế giới ma quỷ (tác giả đã xây dựng môtip những nhân vật là đồ vật biến thành người như cô hầu của Nhị Khanh vốn là một pho tượng ôm hồ cầm bên cạnh linh cửu của Nhị Khanh. Hai mỹ nhân Liễu Nhu Nương và Đào Hồng Nương trong Kỳ ngộ ở trai Tây vốn là tinh hoa hóa thành. Bởi, điều đó xuất phát từ tín ngưỡng theo quan niệm dân gian của người phương Đông với thuyết vạn vật hữu linh, sùng bái tự nhiên. Tất cả vạn vật, cỏ cây đều có linh hồn khi để lâu đều có thể trở thành yêu khí. Mặt khác, trong trí tưởng tượng của người xưa những loài vật sống lâu năm tu luyện biến thành yêu tinh, yêu quái có phép lạ và hay hại người. Từ những tín ngưỡng ấy đã hóa thân thành các nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục. Đó là những nhân vật do loài vật sống lâu năm tu luyện hóa thành người như tú tài họ Viên và xử sĩ họ Hồ trong Bữa tiệc đêm ở Hà Giang), thần thánh, phong tục thờ cúng …
Con người phương Đông luôn tin rằng hiện hữu bên cạnh thế giới hằng thường là thế giới của các thế lực siêu nhiên: ma quỷ, thần linh... Qua thời gian, với sự biến chuyển của lịch sử, xã hội niềm tin ấy có sự thay đổi dần nhưng nó vẫn duy trì cho đến ngày hôm nay. Thậm chí, ở những dân tộc đã đạt đến một xã hội hiện đại, sự xác tín về thế giới bên kia vẫn được bảo lưu dưới nhiều hình thức. Nói về thế giới bên kia bao gồm cả thiên đình, âm phủ, tiên giới. Đây là kết quả của sự tích hợp nhiều tôn giáo đặc biệt là Phật giáo và đạo giáo.
Điềm báo cũng là một loại tín ngưỡng có thực và khá phổ biến trong đời sống tâm linh của người. Điềm báo giúp con người biết trước sự dỡ – hay, may – rủi… sắp và sẽ xảy ra trong cuộc sống. Đó không phải là sự chiêm đoán mà còn là sự chiêm nghiệm từ thực tế. Tìm vào kho tàng văn học cổ, chúng ta sẽ nhận thấy có rất nhiều những tác phẩm in đậm dấu ấn của loại tín ngưỡng này.
Yếu tố kỳ ảo đóng một vai trò quan trọng trong việc hiển hiện đời sống tâm linh, tín ngưỡng của con người. Đó là niềm tin mãnh liệt, thiêng liêng của con người vào phép nhiệm màu, huyền bí của đất trời, của thánh thần, của cuộc đời. Niềm tin ấy giúp con người tin tưởng lạc quan và hướng thiện hơn trong cuộc sống.
2. Phản ánh hiện thực
2.1. Hiện thực đời sống tâm linh
Có thể nói văn xuôi trung đại đã là một bộ phận quan trọng tạo nên giá trị và sắc màu riêng cho cả thời đại văn học. Trải qua các chặng đường phát triển, bộ phận văn học này đã dần thoát ra khỏi ảnh hưởng của lối văn chép sử, hay sưu tầm, ghi chép truyện dân gian để trở thành những tác phẩm văn học thể hiện sức sáng tạo dồi dào, mang hiệu quả thẩm mĩ cao. Với nhiều biểu hiện văn hoá tâm linh đặc sắc, văn xuôi trung đại nói chung và truyện ngắn trung đại nói riêng không chỉ là bộ phận văn học có giá trị to lớn về mặt văn hoá tín ngưỡng mà còn có giá trị cao về mặt nghệ thuật trong việc thể hiện sâu sắc tư tưởng và phản ánh đời sống hiện thực muôn màu, trong đó nổi bật hơn cả là hiện thực đời sống tâm linh với các yếu tố kì ảo.
Đi sâu vào khai thác chiếm lĩnh đời sống tâm linh cùng những trạng thái tâm lí tinh thần đầy bí ẩn của con người là điều mà văn học mọi thời có xu hướng quan tâm. Riêng đối với truyện ngắn trung đại Việt Nam, đó trước hết như một giá trị tự thân bởi chính những yếu tố kì ảo được khảo sát, phân tích là biểu hiện của đời sống tâm linh, của hiện thực tâm linh: một đời sống tâm linh có hạt nhân cơ bản là niềm tin thiêng liêng, một hiện thực tâm linh được tạo nên bởi thế giới quan duy tâm siêu hình.
Ngày nay chúng ta cho rằng không có thần linh, nên cầu cúng, thuật số…là mê tín, là phản khoa học. Nhưng đối với người xưa, cuộc sống không thể thiếu thần linh, Trời đất với quyền năng vô hạn chi phối con người trần thế. Đó là tư duy, là quan niệm, là cách cảm nhận thế giới của họ. Vì vậy mà như đã phân tích cụ thể, thần linh luôn ngự trị trong đời sống con người qua nhiều hình thức khác nhau (thờ cúng, giấc chiêm bao, phép thuật…). Và cũng với niềm tin thiêng liêng thành kính của mình, con người đã nhận được lẽ “cảm ứng” tương hợp nhiệm màu từ thế giới ấy.
Thần linh trong tín ngưỡng của người Việt dù là anh hùng dân tộc hay là linh khí của non sông hay vừa là anh hùng dân tộc vừa là linh khí non sông thì đều được nhân dân sùng bái, ngưỡng mộ và thờ cúng. Họ không chỉ linh ứng phù trợ cho nhân dân mỗi khi cầu mưa, đảo tạnh hay cầu cúng van vái bất cứ điều gì, mà còn tham gia đắc lực vào các công việc triều chính giúp các nhà vua.
Từ những motip thụ thai thần kì, phong thuỷ giải thích sự ra đời của các nhân vật danh nhân, đấng bậc đến các motip phán số, gieo quẻ (Nghiệp oan của Đào thị), hồn ma báo mộng (Cây gạo)…liên quan đến sự hiển vinh, con đường quan hoạn của các nho sinh; từ motip điềm báo số mệnh, thần ma báo mộng liên quan đến vận hạn, mệnh số con người đến sự linh ứng từ tướng số phép thuật theo qui luật nhân quả (sư cụ Pháp Vân đã giúp nhà Nhược Chân tiêu diệt  hai yêu quái trong Nghiệp oan của Đào thị )v.v…tất cả đều phản ánh một cách chân thực sinh động hiện thực đời sống tâm linh con người.
Quan niệm nhân quả, báo ứng nhãn tiền cũng là một quan niệm thực tế chi phối đời sống các tầng lớp nhân dân. Thông qua các yếu tố có tính thần kì, quan niệm ấy thể hiện sâu sắc hơn, linh diệu hơn. Để lí giải cho những vấn đề của cuộc sống thực tại trong lúc trật tự đảo điên, cương thường đổ nát ở các thế kỉ XVII-XIX, các tác phẩm trong Truyền kì mạn lục đều mượn đến những quan niệm họa phúc của nhà Phật bên cạnh những thuyết pháp của Đạo giáo để chuyển tải nhiều tư tưởng tín ngưỡng dân gian một cách “lí luận”, “hệ thống” hơn. Thế giới trong cảm quan của người xưa quả có sự ân đền oán trả phân minh, thiên đường dành cho người tốt còn địa ngục dành cho kẻ xấu. Kẻ ác độc xấu xa nếu không bị trừng phạt lúc sống thì sẽ bị hành hạ đày đoạ lúc chết. Bởi thế giới ấy có “đèn trời” soi tỏ.
Nếu có thể gọi các thế lực siêu hình trong quan niệm tâm linh của người đương thời một cách chung nhất là thần linh thì cũng có thể vắn tắt hiện thực đời sống tâm linh với tư tưởng thần linh chủ nghĩa. Dưới hình thức của cái kì ảo, các hiện tượng tâm linh chính là hiện thân sức mạnh thần linh trong đời sống tín ngưỡng con người. Những yếu tố ấy, ở phương diện tích cực nhất phản ánh đời sống dân tộc với phong tục tập quán, niềm tin thiêng liêng và mang lại cho tác phẩm hiệu quả nghệ thuật đặc sắc: phản ánh và sáng tạo một hiện thực mới- hiện thực của niềm tin, hiện thực tâm linh.
2.2. Hiện thực đời sống xã hội
Bên cạnh thể hiện đời sống tâm linh với những điều kì lạ siêu nhiên và những quan niệm sâu xa về thế giới bên kia, các yếu tố kì ảo trong Truyền kì mạn lục còn có tác dụng to lớn trong phản ánh hiện thực đời sống xã hội đương thời với những vấn đề cơ bản nhất. Không bao hàm toàn bộ cái kì của truyện truyền kì, cái quái của truyện thần quái, song về cơ bản các yếu tố tâm linh trên đều hiện diện với tính chất kì lạ. Nó chẳng phải là cái gì xa lạ mà là chính hiện thực đời sống- hiện thực được “lạ hoá”, “ảo hoá” mà thôi. Những yếu tố này không chỉ tồn tại dưới dạng tư duy, nếp cảm, nếp nghĩ của người đương thời, trong ý thức của mình các tác giả còn sử dụng chúng như một thủ pháp nghệ thuật - hạt nhân tự sự quan trọng trong kết cấu tác phẩm nhằm phản ánh cái thực của xã hội. Hai yếu tố kì ảo và thực, do đó mà có mối liên hệ chặt chẽ. Cái kì ảo làm cho cái thực trở nên lạ hơn và làm cho chính nó trở nên thực hơn.
Ở những chặng đường phát triển khác nhau của nền văn xuôi trung đại, hiện thực đời sống xã hội được phản ánh có nhiều nét khác nhau. Với bút pháp vừa hài hoà vừa uyên bác, giàu tính phóng tác, hư cấu, Truyền kì mạn lục và nhiều tác phẩm thế kỉ XVIII-XIX đã tái hiện khá bản chất hiện thực xã hội đương thời, đặc biệt thân phận con người trong buổi chiến tranh li loạn. Người dân còn luôn bị bọn lưu manh quấy nhiễu, cướp bóc, “nạn trộm cắp vặt”, “nạn đàn bà con gái bị trêu ghẹo ngày càng hoành hành”. Đó là chân tướng của hai pho tượng hộ pháp trong ngôi chùa hoang biến thành người bắt trộm cá, kéo ngã mía của dân ăn (Đông Triều phế tự lục)…. Rõ ràng, ngoài hiện thực xấu xa của xã hội và sự đê tiện của một lớp người thì nhiều truyện kể trong dòng giải thiêng thần Phật còn làm lộ rõ mặt tiêu cực của Phật giáo thời kì này. Trong cái xã hội ô trọc đương thời, Phật điện cũng là nơi ẩn nấp của bọn vô lại chuyên nghề trộm cắp, nhà chùa cũng là nơi hành lạc, chứa chấp những kẻ gian dâm du đãng. Thầy chùa phần nhiều là những kẻ không theo được lối sống chân tu khổ hạnh nên cũng sa đà vào những cuộc tình duyên say đắm đầy lạc thú (Đào thị nghiệp oan kí). Ngòi bút miêu tả tài tình của Nguyễn Dữ đã làm cho hiện thực trở nên sống động hơn, hư hư thực thực- cái thực nhờ cái hư ảo. Bằng bút pháp của truyền kì, tác giả đã cho thấy nguyên nhân thúc đẩy sự suy đồi của xã hội phong kiến chính là đồng tiền, quyền lực và những quan niệm nhân sinh có tính chất thị dân. Đặt nhân vật vào các thế giới ảo, thân phận con người trước những thế lực đen tối được phản ánh rõ nét hơn, giá trị phê phán của tác phẩm càng sâu sắc hơn. Thần Thuồng luồng (Long đình đối tụng lục) lợi dụng quyền lực của loài thuỷquái mà bắt phu nhân quan Thái thú. Đồng tiền và thói ham sắc dục cũng khiến cho nhiều người phải trả giá: Trình Trung Ngộ si mê ân ái với hồn ma Nhị Khanh mà bỏ mạng (Mộc miên thụ truyện), gã phú thương họ Phạm bị giảm thọ 10 năm vì ham mê nữ sắc mà bệnh tình điêu đứng (Xương Giang yêu quái lục). Phê phán quyền lực, đồng tiền và cũng qua những cuộc “kì duyên” đó, tác giả Truyền kì mạn lục thẳng thắn phê phán lối sống đồi bại của những nho sĩ truỵ lạc, lái buôn hãnh tiến, đặc biệt những nho sinh đam mê sắc dục mà bê tha học hành. Quan niệm sống hưởng lạc “Nghĩ đời người ta chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chẳng bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui kẻo một sớm mai chết đi sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân cũng không thể được nữa” (Mộc miên thụ truyện) thật xa lạ quan niệm lành mạnh về cuộc sống và tình yêu của nhân dân. Tác giả lên án và cũng là đấu tranh giữ gìn phẩm giá con người.
Ngoài ra, phê phán lối sống phóng dục bằng việc phủ màu sắc li kì ma quái lên những cuộc tình phóng túng còn là vấn đề thuộc thi pháp của văn học trung đại. Cái ảo ở đây đóng vai trò như là một biện pháp đối phó với sự cấm kị của tư tưởng diệt dục, quả dục đương thời. Trong không gian văn hoá của Nho và Phật, để có thể nói ra cái bản năng tình dục của con người thì những vỏ bọc của sự ma quái là cần thiết. Nó có ý nghĩa là bức bình phong che chắn búa rìu dư luận. Hẳn người đọc cũng nhận ra mục đích kể chuyện về sức mạnh của yếu tố bản năng vốn được xem có ma lực quyến rũ và đáng sợ như ma mãnh mà các tác giả, tiêu biểu là Nguyễn Dữ chuyển tải qua motip sắc dục này.Ta có thể thấy điều này ở tác phầm Nghiệp oan của Đào thị. Nương náu nơi nhà chùa nhưng Đào thị (tức Hàn Than) vẫn lén lút tư thong, ân ái với Vô Kỷ. Hay trong truyện Yêu quái ở Xương Giang ta cũng bắt gặp sự phê phán lối sống phóng dục của nhà văn qua chuyện tình giữa hồn ma Thị Nghi và viên quan họ Hoàng.
Bên cạnh đó, thông qua những cuộc tình duyên giữa người với ma, người với tiên, các tác giả còn lên tiếng bênh vực, phần nào cổ xuý cho những nhu cầu tình cảm, những khát khao yêu đương trần thế của con người, đặc biệt của người phụ nữ. Dù trong lốt thần tiên hay ma quỉ thì các cô gái trong Truyền kì mạn lục vẫn hiện lên với những cảm xúc chân thật nhất trong tình yêu. Họ cũng là những người phụ nữ rất thuỷ chung, cao thượng: nàng Ngoạ Vân hiếu thuận giàu hi sinh, Nhị Khanh đảm đang, tiết liệt, Lệ Nương, Dương Thị, Thuý Tiêu thuỷ chung với người yêu, với chồng. Sự hiện diện của họ giữa cõi thế đều là để hưởng hạnh phúc vợ chồng, không khí gia đình đầm ấm mà bất cứ đâu cũng không có được. Khát vọng yêu đương là lẽ thường tình của con người nhưng trong xã hội phong kiến nó đâu dễ dàng được chấp nhận. Hôn nhân của trai gái là do “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, quyền chủ động tình yêu chỉ thuộc về người con trai. Vì vậy, miêu tả những mối tình đầy chất hư ảo, ma quái, các tác giả truyện ngắn đã làm cuộc “đột phá” bất ngờ vào tường thành lễ giáo phong kiến khi đồng tình với thế chủ động của người phụ nữ, cổ vũ khát vọng hạnh phúc tình yêu chính đáng của con người. Đó cũng còn là sự khẳng định một vấn đề triết lí nhân sinh: trần thế có sức hấp dẫn kì lạ, chỉ ở trần thế mới có hạnh phúc lứa đôi và hạnh phúc lứa đôi là cuộc sống tự do, vượt khỏi mọi chế định và ràng buộc.
Thế nhưng, đưa vào tác phẩm đề tài số phận người phụ nữ trong xã hội bất công, đầy biến loạn, cũng như các tác giả Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm…các tác giả văn xuôi, tiêu biểu là Nguyễn Dữ đã phơi bày một thực trạng phũ phàng: người phụ nữ dù khuôn mình vào đạo tam tòng cũng khó tồn tại được nên họ có thể tìm đâu ra hạnh phúc?! (Thuý Tiêu truyện, Lệ Nương truyện, Nam Xương nữ tử truyện…). Ở nhiều khía cạnh khác nhau, dưới áo khoác của những hồn ma, những yếu tố kì ảo, hư huyền, họ đều ít nhiều tiêu biểu cho truyền thống người phụ nữ Việt nam: thuỷ chung, giàu đức hi sinh.
Sử dụng yếu tố kì ảo làm chất liệu nghệ thuật, các nhà văn đã phản ánh cuộc sống sâu sắc hơn, những câu chuyện lạ về loài vật, về ma quỉ thần thánh trở nên quen thuộc hơn, những điều hư ảo mà thấy rất thực. Dưới màu sắc hư ảo, thần quái, những truyện kể tâm huyết xoay quanh đề tài người phụ nữ, Nguyễn Dữ là ánh sáng tư tưởng nhân văn sáng ngời mà mà họ đóng góp vào trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn học trung đại.
Một hiện thực khác cũng hiện lên không kém phần chân thực là chuyện thi cử, đỗ đạt. Thực trạng suy thoái của xã hội phong kiến thế kỉ XVIII-XIX đã kéo theo sự suy vi của Nho giáo. Mặt tiêu cực nhất thể hiện ở chốn quan trường và tầng lớp nho sinh trí thức. Môtíp thi cử ở nhiều truyện mặc dù có dáng dấp của giai thoại được ẩn sau tấm màn thần bí của những giấc mộng, cầu mộng, lời phán của thầy tướng số, phúc lộc từ đất thiêng hay ân đức tiền nhân để lại…, song từ các góc độ khác nhau, chuyện trường thi với tất cả sự thật trần trụi của nó được phơi bày.
Cùng với môtíp phong thuỷ, qua các motip thi đỗ từ giấc mộng, làm việc thiện được trả ơn, các tác giả đã “vén bức màn thần bí” của những kiểu tiêu cực trong khoa cử.  Ta có thể nhận thấy những chi tiết này trong tác phẩm Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào. Tử Hư được thầy của mình là Dương Trạm báo rằng sẽ thi đỗ. Và sau bao lần thi, cuối cùng Tử Hư đã thi đỗ tiến sĩ. Dương Trạm đã yêu mến tấm lòng hiếu thảo của học trò mình và từ đó những việc “cát hung họa phúc nhà Tử Hư, thường được thầy về báo cho biết”. Những chi tiết kì ảo xen lẫn chi tiết thực đã chỉ rõ không phải các vị đại khoa đều có khả năng xứng đáng. Khoa bảng chẳng qua chỉ là phía khuất lấp của cuộc sống đầy phức tạp mà người ta thường cốche giấu. Trong tình hình Nho học suy đồi, “những người mặc áo nhà nho, đeo dải nhà nho…thường đổi họ để đi học, thay tên để ra thi”, việc thi cử trở thành bậc thang công danh bám đầy bùn nhơ. Sự đỗ đạt hiển vinh cũng không ngoài mưu lợi ích cá nhân của những ông nghè ông cống.
Một hiện thực trong xã hội lúc bấy giờ mà nhà văn còn muốn phản ánh trong tác phẩm là hiện tượng quan lại tham ô nhận của hối lộ để cái xấu, cái ác được hoành hành, người lương thiện bị đày đọa, hàm oan. Tác phẩm Truyện chức phán sự đền Tản Viên đã được Nguyễn Dữ thể hiện sâu sắc điều ấy. Hồn ma tên tướng giặc xảo nguyệt, gian mưu đã chiếm chỗ của thổ công đất Việt và hắn tác oai, tác oái, gây hại cho dân lành. Ngô Tử Văn vốn tính tình cương trực, dứt khoát đã ra tay trừng trị tên tướng giặc.  Lúc đầu Tử Văn cũng gặp nạn, suýt phải chết vì bị hồn ma tên tướng giặc ám hại. Quan lại từ cõi trần đến cõi âm đều bưng bít, che giấu sự thật, tạo điều kiện cho các xấu, cái ác lên ngôi. Cuối cùng bằng sự dũng cảm, cương trực, Tử Văn đã chiến thắng, tiêu diệt hồn ma tên tướng giặc. Truyện phản ánh hiện thực quan lại tham ô trong xã hội lúc bấy giờ và qua chiến thắng của Ngô Tử Văn còn thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc, đề cao phẩm chất kẻ sĩ. Kết thúc có hậu của truyện cũng chứng tỏ Nguyễn Dữ đã tìm về cội nguồn truyền thống nhân đạo và yêu nước của dân tộc Việt Nam từng được thể hiện trong nhiều câu chuyện cổ tích: chính nghĩa thắng gian tà, tinh thần dân tộc chống ngoại xâm.
Chỉ với một vài nét gợi, các yếu tố tâm linh trong Truyền kì mạn lục với hình thức của cái kì ảo, hoang đường đã nói lên nhiều vấn đề của hiện thực đương thời. Lấy cái ảo để nói cái thực, tạo nên một thế giới thực - ảo lẫn lộn là một thành công nghệ thuật đáng kể của truyện ngắn thời kì này.
3. Thể hiện tư tưởng
Sử dụng yếu tố kì ảo như là một thủ pháp nghệ thuật, qua hiện thực được phản ánh, tác giả còn gửi gắm nhiều quan niệm, tư tưởng sâu sắc. Tác giả đã thể hiện rõ ý thức về tâm linh, sự hướng về quá khứ, cội nguồn truyền thống quí báu của dân tộc. Đi tìm niềm tự hào dân tộc trong những hiện tượng có tính chất thần kì là một xu hướng tư tưởng phổ biến đáng quí của các môn đệ cửa Khổng sân Trình. Đó còn là niềm tin vào một thế giới khác hẳn thế giới trần tục con người tồn tại- thế giới có quỷ thần chí quái nhưng ân oán rạch ròi. Qua đây người đọc các thế hệ như được củng cố thêm niềm tin vào sự hiện diện của đời sống tâm linh của con người đương thời. Không phải thế giới đầy ma quái rùng rợn trong các truyện thần quái hay thế giới bồng lai thoát tục trong nhiều truyện truyền kì Trung Quốc, các thế giới ảo trong Truyền kì mạn lục (âm phủ, thuỷ cung, tiên giới, thiên đình) rất gần với thế giới thực, là diện mở rộng của thế giới thực để qua đó con người nói lên khát vọng về cuộc sống, lí tưởng về sự công bình. Những nơi ấy cũng có cơ cấu tổ chức như ở cõi thế nhưng khác là, những gì không thể thực hiện được ở trần gian lại có thể thực hiện được ở đây.
Thế giới thuỷ cung chính là nơi quan thái thú vạch mặt tên thuỷ quái háo sắc và cứu phu nhân trở về (Long Đình đối tụng lục), là nơi nàng Vũ Nương đựơc phu nhân Long Hầu giúp để tâm hồn được siêu thoát (Nam Xương nữ tử truyện). Còn âm phủ là nơi trừng trị đích đáng tên tham quan ô lại Lý Hữu Chi (Lý tướng quân truyện).
 Nếu cõi âm là nơi phán xét thì thượng giới, cõi tiên bồng là nơi ban thưởng cho người có tài đức trong cuộc đời. Thầy Dương Trạm được thượng đế khen có bụng tốt, biết trọng chữ nghĩa thánh hiền nên khi từ trần được giao việc trông coi thi cử ở  Thiên Tào (Phạm Tử Hư du thiên tào lục).
Là không gian đậm chất kì ảo, thế giới mộng cũng là không gian mang ý nghĩa tư tưởng. Ở đó, ngoài các nhân vật là tiên, là hồn ma hay những người có phép thần có khả năng đi mây về gió, thì những con người bình thường cũng đôi khi được lạc vào đó để có những phút giây chứng kiến cuộc sống ở thế giới khác mình. Ở đó, con người có được cơ hội xúc tiếp thần linh, thấy được “phép nhiệm màu thần thánh”. Và hơn hết, ấy là nơi mà nhân dân qua nhiều thế hệ có thể “gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình, cùng với thơ và mộng” gửi gắm bao ước mơ khát vọng về những điều tốt đẹp cho cuộc sống - những điều “nên có và có thể có” (các truyện về giấc mộng báo đường quan hoạn, đỗ đạt hiển vinh, mệnh số, nhân duyên). Tạo ra những cuộc “kì ngộ” giữa người với thần, với tiên, để nhân vật lạc vào thế giới của thần tiên chính là điểm gặp gỡ của các tác giả truyện với nhân dân trong tinh thần lãng mạn bay bổng và mong ước cao xa mà rất đỗi bình dị về một cuộc sung túc đẹp đẽ như tiên giới giữa cuộc đời này.
Truyện ngắn trung đại nói chung, Truyền kỳ mạn lục nói riêng sử dụng chất liệu của huyền thoại không phải chỉ là đưa người đọc đến với thế giới quan thần linh, mà còn dùng nó như một phương thức nghệ thuật chuyển tải nhiều nội dung tư tưởng sâu sắc. Những câu chuyện được kể không còn dừng lại ở việc ghi chép mà trở thành sản phẩm sáng tạo với tiêu chí “trong ảo có lí, trong kì có tình”. Suy cho cùng, động cơ sáng tác truyện có tính kì ảo ở đây không nằm ngoài phạm vi “tải đạo ngôn chí” cũng như lối diễn đạt ngụ ý của nghệ thuật trung đại.

                                      

Môtíp nhân vật kì ảo trong Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ

 Môtíp nhân vật
 Những yếu tố kỳ ảo trong Truyền kỳ mạn lục được thể hiện qua hệ thống nhân vật kỳ ảo. Nó giữ vai trò quan trọng và gắn liền với đặc trưng của thể loại truyền kỳ: kết hợp cái kỳ ảo và cái hiện thực. Và ở đó hệ thống nhân vật kỳ ảo xuất hiện với tần suất cao. Ta có thể bắt gặp các môtíp nhân vật kỳ ảo trong tác phẩm. Trước hết đó là những nhân vật hóa kiếp hay đó là những hồn ma.
  1.1. Hóa kiếp người thành vật, vật thành người
            Thường xuất hiện trong Truyền kỳ mạn lục là hệ thống những nhân vật hóa kiếp vật thành người, người thành vật. Trong thế giới của truyện truyền kỳ cây cối, hoa cỏ cũng có linh hồn và cũng có khả năng biến hóa thành con người. Liễu Nhu Nương và Đào Hồng Nương trong Truyện kỳ ngộ ở trai Tây là hai tinh hoa của một dòng tộc đã suy tàn cách đó hai mươi năm biến hóa thành hai cô gái đẹp quyến rủ chàng thư sinh Hà Nhân. Hà Nhân không chỉ làm bạn, ân ái với hồn hoa Liễu Nhu Nương và Đào Hồng Nương mà còn được dự buổi tiệc đêm với những mỹ nhân họ Vi, Lý, Mai, Dương cũng là những tinh hoa biến thành…. Để rồi sau đó, khi trở lại chỗ dự tiệc cũ chàng chỉ thấy vài ba cây đào, cây liễu xơ xác, tàn lụi tơi bời khiến chàng tỉnh ngộ “Chị ả họ Kim, thì đây là hoa Kim tiền, cô nàng họ Thạch thì đây cây Thạch lựu. Đến như họ Vi, Lý, Mai, Dương cũng đều nhân tên hoa mà làm họ cả”. Về đến nhà, lấy chiếc hài mà hai nàng Đào, Liễu tặng ra xem thì “vừa cầm trên tay, mấy chiếc hài đã thành những cánh hoa” bay lên không trung.
Trong thế giới truyền kỳ những đồ vật tưởng như vô tri vô giác như bức tượng, đàn cũng có yêu khí cũng có thể biến thành người. Bức tượng con hầu ôm cây hồ cầm bằng đất bên cạnh linh cữu người chết trong Truyện cây gạo cũng có khả năng hóa thân thành người thật và vật thật. Hay những tượng thủy thần, Hộ pháp trong Cái chùa hoang ở Đông Trào biến thành người để hưng yêu tác quái. Đó cũng có thể là loài vật tu luyện lâu năm có khả năng biến hóa thành người. Trong Bữa tiệc đêm ở Hà Giang, cáo và vượn già biến hóa tài tình đến nỗi Hồ Quý Ly nói chuyện cả đêm cũng không nhận ra, vết tích còn lại chỉ có trong cái tên của tú tài họ Viên và xử sĩ họ Hồ. Phải đến khi chúng từ biệt mật sai người rón rén theo sau mới biết “cả hai hóa thành con cáo và con vượn mà đi mất”.
Với Truyền kỳ mạn lục, không chỉ có loài vật biến thành người mà cũng có những trường hợp nhân vật là con người qua sự chuyển kiếp lại biến thành loài vật. Trường hợp của Hàn Than và Vô Kỷ trong Truyện nghiệp oan của Đào Thị là một điển hình. Hai nhân vật này chết nhưng không biến thành hồn ma đơn thuần mà hóa thành hai con rắn đầu thai thành con của Ngụy Nhược Chân để trả thù việc trước đó vợ của Ngụy Nhược Chân đánh ghen Đào Thị. Khi bị sư phụ Pháp Vân trừ yếm, hai cái thây của Long Thúc và Long Quý lại trở thành hai con rắn vàng.
Có thể thấy những nhân vật có sự chuyển hóa từ người thành vật và từ vật thành người là môtíp thường thấy trong Truyền kỳ mạn lục. Điều đó cho thấy có sự ảnh hưởng của thuyết vạn vật hữu linh trong tính ngưỡng dân gian phương Đông, những vật lâu năm điều có linh khí và có khả năng biến hóa thành người. Trong tư duy của người Việt, mọi cây cối, loài vật trong tự nhiên điều có linh hồn thậm chí có quyền phép và ma thuật. Bên cạnh đó còn là do trí tưởng tượng và sự sáng tạo độc đáo của tác giả.
1.2. Hóa kiếp người thành thần tiên, thần tiên thành người
Không giống như mô típ nhân vật người biến thành vật, vật biến thành người, môtip người hóa kiếp thành tiên và tiên hóa kiếp thành người xuất hiện với tần suất ít trong Truyền kỳ mạn lục. Nhân vật kỳ ảo trong truyện có thể là tiên nữ hóa thành người và chung sống cuộc đời vợ chồng thật sự với người trần. Trong Từ Thức gặp tiên, tiên nữ Giáng Hương hóa thành một người con gái “tuổi độ 15,16 phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời” đến hội xem hoa nở. Cô gái vin một cành hoa, không may cành giòn mà gãy, bị người coi hoa bắt giữ và may nhờ Từ Thức cứu giúp. Sau đó tiên nữ Giáng Hương và Từ thức nên duyên vợ chồng ở cõi tiên.
Nhân vật cũng có khi là thần thánh hóa thành người như trong Long đình đối tụng lục Thần Thuồng luồng hóa thành người với hình dạng “một người đàn ông thân thể vạm vỡ, mũ đỏ, mặt đen” thậm chí còn lợi dụng quyền lực của mình làm điều dâm ngược, lợi dụng giông gió bắt cóc vợ người, chia quyên rẽ thúy.
Tương tự cũng có những nhân vật là con người nhưng nhờ đức độ mà sau khi chết được biến thành thần. Tiêu biểu là Ngô Tử Văn trong Truyện chức phán sự đền Tản Viên, một chàng trai khảng khái đã bất bình trước sự hưng yêu tác quái của hồn ma tên tướng giặc mà có hành động đốt đền và kiên định với chính nghĩa, đấu tranh đến cùng để bảo vệ lẽ phải. Và sau khi chết, chàng được phong làm chức Phán sự ở đền Tản Viên.
1.3. Hồn ma
Với môtip nhân vật là hồn ma chiếm số lượng đông đảo nhất trong Truyền kỳ mạn lục. Đó là những hồn người chết biến thành ma trở về cõi trần nhằm mục đích cụ thể nào đó. Hồn ma cô gái họ Hồ trở về tác quái để báo oán trong Truyện yêu quái ở Xương Giang. Hồn ma Thị Nghi biến thành cô gái xinh đẹp, luôn luôn biến đổi “hoặc nhập vào chị ả buôn tương, hoặc ốp vào cô hàng bán rượu” hay biến thành “cô gái mười bảy, mười tám” để dâm xác những kẻ có vai vế, bóc lột những kẻ có tiền của mà trả thù cho cái chết oan uổng của mình. Hay chỉ vì ham mê luyến ái mà những hồn ma chết xuống âm phủ vẫn nấn ná cõi trần tìm thú vui như Nhị Khanh trong Truyện cây gạo. Nhị Khanh chết khi mới hai mươi tuổi, cái tuổi trẻ trung và tràn đầy sức sống nên mới hóa thành người để quyến rũ nam nhân tìm sự ái ân hoang lạc. Không chỉ vui thú chốc lát, những hồn ma này còn tìm cách lôi kéo những nam nhân cùng làm ma với mình như Hàn Than đã nói với Vô Kỷ “sống còn chưa được thỏa yêu đương, chết sẽ cùng nhau quấn quýt”. Đó là nguyên nhân cái chết của Trình Trung Ngộ và Vô Kỷ. Trình Trung Ngộ chết trong tư thế ôm quan tài của Nhị Khanh để rồi từ đó về sau hai hồn ma thỏa sức cười vui đùa giỡn. Còn trong Truyện Lệ Nương, hồn ma Lệ Nương hiện về để gặp người yêu cũ khóc kể nỗi khổ tâm của sự ly biệt. Hồn ma của Bách Hộ họ Thôi trong Truyện chức phán sự đền Tản Viên vốn là hồn ma tên tướng giặc bại trận dám đánh đuổi thổ thần chiếm đền miếu. Hắn hiện về trong giấc mộng của Ngô Tử Văn để hăm dọa trước những việc làm của chàng đối với hắn.
Đặc sắc nhất trong Truyền kỳ mạn lục là những nhân vật hồn ma được xây dựng trong một chuyện tình giữa người và ma. Trong đó, tất cả các nhân vật nữ đều là hồn ma hiện thành người. Nhị Khanh, Thị Nghi là hồn người chết lang thang đều không có sự ràng buộc gì với các nam nhân trong truyện. Các chàng trai là những con người thế tục, là những hạng người cụ thể trong xã hội:  chàng thương nhân Trình Trung Ngộ hay viên quan họ Hoàng…là những đối tượng được quan tâm phản ánh trong nhiều truyện của Truyền kỳ mạn lục. Các chàng trai đều là kẻ ham nữ sắc bị yêu ma quyến rũ đắm chìm trong nhục dục. Họ đều là những con người trẻ tuổi, đang ở trong cơ hội thành đạt. Cuộc đời mỗi người chưa rơi vào sự mâu thuẫn giữa hiện thực và ước nguyện cũng không gặp những bế tắc cần tìm phương cách giải tỏa. Trình Trung Ngộ là “một chàng trai đẹp, nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng Nam buôn bán”. Viên quan họ Hoàng người Bắc Giang xuống kinh đô nhận chức. Gặp mỹ nữ, sự đam mê nữ sắc biến thành sức lôi cuốn mạnh mẽ, khó cưỡng lại. Ở đây mối quan hệ tình yêu, hôn nhân giữa các chàng trai và các hồn ma diễn ra một cách thoải mái, dễ dàng và đơn giản với sự hiện diện của yếu tố tính dục. Điều này có thể dẫn đến nhiều cách cảm nhận khác nhau.
Đó có thể là khát vọng giao hòa tuyệt đối giữa cá thể với vũ trụ được thể hiện qua ngôn ngữ tình yêu và ngôn ngữ tình dục. Bởi tình yêu trong truyện Truyền kỳ là kiểu tình yêu vô điều kiện giống như những khoảnh khắc hòa nhập ngắn ngủi nhưng tuyệt đối giữa con người với cái vô cùng vô tận của vũ trụ.

Mặt khác, đó cũng có thể hiểu đó là nỗi thất vọng sâu xa trước những đắng cay của xã hội, của thế thái nhân tình, dẫn đến những phản ứng chối bỏ thực tại của cõi người để đi sâu vào khả năng vươn tới thế giới không có điên đảo thị phi. Nhưng dù là khát vọng hay thất vọng thì việc miêu tả tính dục không phải là mục đích chính của nó. Vì yếu tố tình dục được miêu tả qua lăng kính của cái ảo, luôn mong manh và sẵn sàng biến mất không dấu vết.

Thi pháp cốt truyện và ngôn từ nghệ thuật trong Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm

1. Thi pháp cốt truyện
Chinh phụ ngâm khúc là tác phẩm trữ tình. Toàn bộ khúc ngâm là sự giãi bày cảm xúc của người vợ có chồng đi lính xa nhà. Hầu hết mỗi dòng trong tổng số 408 câu thơ của bản dịch đều không ít thì nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp gắn với tiếng nói bên trong của người thiếu phụ. Thể song thất lục bát như được sinh ra để trở thành hình thức chuyên dụng cho những áng thơ trữ tình trường thiên như Chinh phụ ngâm khúc, âm điệu song thất đều đều, trầm lặng, khổ thơ lặp lại mang tính chu kì với những vần lưng vần chân kết dính lẫn nhau đã trở thành ưu thế nổi bật diễn tả tình cảm triền miên da diết của người chinh phụ. Chinh phụ ngâm khúc vì thế đã tìm được một nội dung và hình thức để có thể khẳng định xếp vào thể loại trữ tình. Tuy nhiên đọc Chinh phụ ngâm khúc, ta còn có thể tìm ra yếu tố tự sự trong tác phẩm. Giáo sư Lê Trí Viễn khi bắt đầu phân tích toàn bộ khúc ngâm cũng đã tóm tắt văn bản trong khoảng 20 dòng. Chỉ xét riêng về mặt hình thức chưa bàn đến đến nội dung của bài tóm tắt, cũng thấy đây là công đoạn quen thuộc của những tác phẩm thuộc thể loại tự sự, thể loại có sự xuất hiện của cốt truyện cùng hệ thống các sự kiện.
Chinh phụ ngâm khúc giống như một câu chuyện kể về số phận bi thương của người chinh phụ. Tác phẩm cũng có thể chia làm ba phần với diễn tiến như sau: mở đầu là việc người chồng ra trận, tiếp đến là cảnh chờ đợi của người vợ trẻ và kết lại khúc ngâm là ngày người chồng trở về trong ngày vui chiến thắng. Sự kiện chính, được xem như biến cố của cuộc đời người chinh phụ là việc chồng ra chiến trận trong lúc cả hai người “tuổi đương chừng niên thiếu”. Tình yêu và hạnh phúc đang ở độ nồng nàn đắm say phải tạm chia lìa, đứt đoạn. Người chinh phụ bắt đầu bước vào một quãng đường dài của sự chờ đợi mỏi mòn vô vọng, mọi gắng gượng và nỗ lực xua đuổi nỗi buồn của nàng đều trở nên bất lực. Hàng loạt những sự việc được nói đến. Nàng gieo quẻ bói, đề chữ trên gấm, gượng đốt hương, gượng soi gương, tìm đến chồng qua những giấc mộng, cậy người gửi đến những kỉ vật yêu thương…nhưng tất cả chỉ là sự trống không, vô vọng.
Hầu như toàn bộ các áng thi ca nổi tiếng nói trên đều được tác giả vay mượn cốt truyện và ý tứ của văn học Trung Quốc để gởi gắm tâm sự của mình hoặc nói đến hoàn cảnh đau thương của đất nước. Riêng Chinh phụ ngâm khúc có cái đặc biệt hết sức riêng lẻ là cốt truyện không vay mượn, là một sáng tác phẩm hoàn toàn mới do chính tác giả hun đúc nên, được khơi dậy từ tâm trạng của một viên quan chức thời phong kiến xót xa trước cảnh chia ly và đau khổ của những cặp vợ chồng son trẻ trong chinh chiến thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Mặc dù vẫn không tránh khỏi việc sử dụng nhiều thành ngữ, điển tích và bối cảnh theo lối của văn học Trung Quốc. Tuy nhiên, đây có thể xem là một trong những tác phẩm tài hoa, thê hiện sự sáng tạo về cốt truyện không vay mượn từ văn học nước ngoài.
2. Thi pháp nghệ thuật ngôn từ
2.1. Về ngữ âm
Lời văn nghệ thuật gắn liền với các yếu tố thanh, vần, nhịp điệu…Những yếu tố này thường tạo ra những hiệu quả đáng kể cho tác phẩm nghệ thuật.
            Chinh phụ ngâm khúc có những đặc trưng về vần độc đáo, có lúc tuân thủ quy định về vần của thể thơ song thất lục bát:
“Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.”
Sự phối hợp giữa vần ở hai câu thất và câu lục khá chặt chẽ. Việc tạo vần theo nguyên tắc không gây ra cứng nhắc trong diễn đạt mà tạo sự trùng khớp, nhịp nhàng giữa các thanh với nhau. Vần của thể thơ song thất lục bát trong Chinh phụ ngâm khúc rất phong phú: vần trắc, vần bằng, vần lưng, vần chân, chúng kết hợp về mặt ngữ âm tạo thành tính liên kết giàu chất nhạc, phù hợp diễn tả tâm trạng, cảm xúc trữ tình.
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp các tác giả phá vỡ tính quy phạm về vần trong thơ song thất lục bát:


“Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
Bóng cờ tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng.”
Trong thể thơ song thất lục bát thì nhịp điệu thường rất chuẩn, ít phá cách. Thường thi bắt gặp nhip điệu 3/4 trong hai câu thất và 2/2 trong hai câu lục bát:
“Sương như búa / bổ mòn gốc liễu
Tuyết nhường cưa / xẻ héo cành ngô
Giọt sương / phủ bụi / chim gù
Sâu tường / kêu vẳng / chuông chùa / nện khơi”
Ngoài ra thì còn có sự phá cách tạo cho tứ thơ trở nên phong phú, độc đáo:
“Tìm chàng thuở / Dương Ðài / lối cũ
Gặp chàng nơi / Tương Phố / bến xưa
Xum vầy / mấy lúc /  tình cờ
Chẳng qua / trên gối / một giờ / mộng xuân.”
Với nhịp điệu 3/2/2 ở hai câu thất tạo tính đều đặn về tiết tấu, thể hiện tính chất đối xứng, tạo nên giọng điệu mới mẽ.
Về đối, trong thơ song thất lục bát thì đối rất phong phú. Trong Chinh phụ ngâm khúc thì Đoàn Thị Điểm dùng rất nhiều phép đối: đối cách đoạn, đối cách cú, tiểu cú.
“Tin thường lại người không thấy lại
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh
Rêu xanh mấy lớp xung quanh
Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ.”
Đối với đoạn:
Thư thường tới người chưa thấy tới
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai.”
Với cách đối đoạn thì thấy được sự cân xứng giữa hai đoạn, tạo nên sự đối lập giữa hai tâm trạng hoặc giữa tâm trạng với ngoại cảnh. Hiện tượng đối này tạo nên sự nhịp nhàng của vầng thơ.
Phép đối thứ hai là phép đối cách cú:
“Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây”
Cả hai câu này đối về ý lẫn về từ: “Trống Tràng thành” > < “khói Cam Tuyền”, “lung lay” > < “mờ mịt”, “bóng nguyệt” > < “thức mây”. Cách đối này tạo nên tính cân xứng giữa các câu trong cùng một đoạn, càng làm tăng thêm tính réo rắt, sự đối lập trong lòng người chinh phụ.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng biện pháp đối tiểu cú. Cách đối này xuất hiện với tần số không nhiều như đối cách cú, nhưng có những hiệu quả riêng biệt, thể hiện hình thức chỉnh chu, cân đối:
“Biếng cầm kim >< biếng đưa thoi
Oanh đôi thẹn dệt >< bướm đôi ngại thùa”
Đây là cách đối xuất hiện với tần suất vừa phải trong Chinh phụ ngâm khúc nhưng có hiệu quả lớn, chính cách đối này thể hiện được những trạng thái đối lập trong nội tâm của người chinh phụ, góp phần hỗ trợ đắc lực cho dụng ý nghệ thuật của tác giả.
2.2. Về mặt từ vựng
Trong Chinh phụ ngâm khúc từ láy xuất hiện rất nhiều, và phong phú về các kiểu từ láy. Có tất cả 87 từ láy, trong đó từ láy âm chiếm số lượng rất lớn.
Từ láy hoàn toàn điệp âm, điệp vần, điệp thanh:
“Hồn tử sĩ giò ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi”
Từ láy hoàn toàn điệp âm, điệp vần, khác thanh:
“Trời thăm thẳm xa vời không thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”


Từ láy hoàn toàn điệp âm, khác vần, khác thanh:
“Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa”
Từ láy bộ phận láy âm:
“Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây”
Từ láy bộ phận láy vần:
“Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương”
Từ láy tư:
“Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không”
                    Bên cạnh các từ láy thì Chinh phụ ngâm khúc là một tác phẩm mang tính tập cổ được thể hiện qua việc sử dụng nhiều từ Hán việt. Cụ thể, tác phẩm sử dụng nhiều điển tích, điển cố tạo nên tính cô đọng, hàm súc, lời ít nhưng ý nhiều gợi lên trường liên tưởng cho độc giả:
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá
Gương lầu Tần dấu đã soi chung
Cậy ai mà gửi tới cùng
Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư.”
            Để miêu tả tâm trạng nhớ nhung của người chinh phụ thì tác giả sử dụng điển tích: Hán Cung Thoa và Gương Lầu Tần. “Hán Cung Thoa” là trâm cài tóc, Hán Võ Đế dựng điện Chiêu Linh có hai thần nữ đến dâng hoa bằng ngọc, vua ban thoa ấy cho Triệu Tiếp Dư, khi mở ra chiếc thoa bỗng hóa chim yến bay lên trời. “Lầu Tần Kính” là gương của Tần Thủy Hoàng dùng để soi ngũ tạng, tâm cang của người ngay, kẻ gian. Qua hai điển tích tác giả nói lên lòng chung thủy của người chinh phụ. Hay:
“Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn dáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu lan rằng theo Giới tử
Tới Man khê bàn sự Phục ba
Các địa danh Trung Hoa gắn liền với các điển tích được tác giả sử dụng nhằm thể hiện những vất vã, hiểm nguy mà người chinh phu phải đối mặt nơi chiến trường.
Bên cạnh cách sử dụng từ ngữ phong phú thì tác giả còn sử dụng thành công các biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, điệp, cường điệu..
Ẩn dụ:
“Khác gì ả chức, chị Hằng
Bến Ngân sùi sục cung trăng chốc mồng”
Dùng ả chức để miêu tả nỗi nhớ mong, chờ đợi tin chồng của người chinh phụ, diễn tả sự xa cách không biết bao giờ gặp lại. Bên cạnh đó Đoàn Thị Điểm còn dùng các hiện tượng “sao Sâm” và “sao Thương” để nói về tâm trạng xa cách, chia lìa giữa người chinh phu và người chinh phụ:
“Xưa sao hình ảnh chẳng rời
Bây giờ nở để cách vời Sâm Thương”
Nhân hóa:
“Lá màn lay gọi gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm”
Tác giả cho thiên nhiên tạo vật những hành động rất người, biết lay gọi, di chuyển. Thiên nhiên, tạo vật chuyển động trước sự tĩnh lặng của con người, càng làm tăng thêm nỗi sầu muộn của người chinh phụ. Màn lay ngọn gió, bóng hoa theo cùng bóng nguyệt, sự vật xung quanh người chinh phụ như có cặp có đôi, chỉ trơ trọi nơi đây tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, một cảm giác cô đơn, hoang vắng đến nao lòng.
“Mượn hoa mượn rượu giải sầu
Sầu làm rượu nhạt muộn làm hoa ôi”
Đoàn Thị Điểm đã dùng những từ chỉ trạng thái của con người như: sầu, muộn để chỉ những hoạt động của con người.
So sánh:
“Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô”
Nỗi nhớ và chờ đợi trong mõi mòn, khiến thân xác người chinh phụ cũng dần mòn theo năm tháng. Thời gian và thiên nhiên cùng sương, tuyết có làm héo mòn đi tạo vật và con người, nhưng nỗi nhớ niềm thương vẫn không hề vơi cạn, mà nó ngày càng đong đầy, ngày càng tăng thêm cùng thời gian. Tác giả sử dụng biện pháp so sánh vừa biểu hiện về mặt nội dung vừa thể hiện tính cân đối trong câu thơ.
Bên cạnh đó nỗi nhớ niềm thương của người chinh phụ còn được so sánh cùng với các từ chỉ thời gian và không gian:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa”
Điệp:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.”
            Từ “thấy” xuất hiện ở cuối câu thứ nhất của đoạn thơ được lặp lại ở đầu câu thứ hai, từ “ngàn dâu” cuối câu thứ hai lai được lặp lại ở đầu câu thứ ba trong đoạn. Có thể nói qua cách điệp nối thì tâm trạng người chinh phụ kéo dài trong nỗi sầu day dứt. Với việc dùng phép điệp không những diễn tả rỏ ràng về nét nghĩa của từ mà còn tạo nên một nhịp điệu trầm bổng.
Ngoài phép điệp nối tiếp thì phép điệp cách quảng cũng được tác giả thể hiện rất thành công, mang lại nhiều hiệu quả trong việc khắc họa nhân vật:
Lòng chàng ví cũng bằng như thế
Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa
Hướng dương lòng thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
            Từ “lòng chàng” ở câu thứ nhất được lặp lại ở câu thứ tư trong đoạn. Đây là cách điệp được tác giả vận dụng khá hiệu quả, bởi vì điệp cách quảng là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho tâm trạng độc thoại nội tâm.
                    Cường điệu:
“Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối
Muộn chứa đầy hãy thổ thành cơm”
                  Nỗi nhớ đã được tác giả phóng đại tạo hiệu quả về nhận thức rất độc đáo. Sở dĩ tác giả phóng đại nỗi nhớ ấy là vì bà đang phải sống trong cảnh xa chồng và nhớ thương chồng da diết.
2.3. Về mặt ngữ pháp
            Các phương tiện ngữ pháp: câu cầu khiến, câu nghi vấn, câu cảm thán…có khả năng làm phong phú tính nghệ thuật của lời văn.
Câu cầu khiến:
“Xin làm bóng theo cùng chàng vậy
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên”
Thể hiện sự gắn bó trong tình yêu, ước mơ thật giản dị “xin làm bóng”, không muốn rời xa người chinh phụ. Đó là khát vọng tình yêu thủy chung sâu sắc. Bên cạnh đó, người chinh phụ tự vẽ cho mình bức tranh về cảnh đoàn viên, nàng tự tha thiết hứa với chính mình, độc thoại nội tâm như đang bên cạnh người chinh phu:
“Thiếp xin về kiếp sau này
Như chim liền cánh như cây liền cành”
Câu cảm thán:
“Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan san để cách hàn huyên cho đành”
Hai dòng thơ không chỉ nói lên nỗi lòng của người chinh phụ, mà đó còn là giọng điệu ai oán, sầu thương. Những lời trách cứ nghe như rất nhẹ nhàng nhưng nó mang tính phản chiến sâu sắc, chiến trường đã cướp đi tuổi xuân của những người niên thiếu. Bên cạnh đó, câu cảm thán còn góp phần thể hiện nhiều phương diện trong tác phẩm:
“Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trên hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!”
Nỗi buồn đau ấy càng da diết không nguôi, một nỗi đau chất chồng theo năm tháng, từ láy “trùng trùng” kết hợp cùng câu cảm thán hỗ trợ cho nhau diễn tả nỗi buồn đau của người chinh phụ.


Câu nghi vấn:
“Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?”
Một câu hỏi chua xót, thấm thía mà không ai có thể trả lời, chỉ có thực trạng xã hội phong kiến thối nát đương thời mới có câu trả lời xác đáng. Câu hỏi ấy cũng chính là thái độ của tác giả muốn bày tỏ, một thái độ phản dối thực trạng xã hội đương thời.
 “Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Tình chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Người chinh phụ luôn đặt ra câu hỏi liệu nơi chiến trường xa ấy người chinh phu có nhớ đến nàng, như những nỗi sầu muộn mà nàng nặng trĩu đeo mang. Nàng còn tự hỏi liệu nỗi nhớ, nỗi sầu của chàng có sánh được với những nỗi nhớ niềm thương đang ngự trị trong lòng mình.
“Ấy loài vật tình duyên còn thế
Sao kiếp người nở để đấy đây?”

Nàng so sánh tình yêu của mình với những loài vật, một sự so sánh có sự khập khiễng. Nhưng đây quả thật là một sự so sánh rất tài tình của Đoàn Thị Điểm. Những thứ vô tri như liễu, sen vẫn được hạnh phúc liền cành bên nhau, trong khi con người đầy ý thức nhưng lại phải sống trong cảnh chia lìa đôi ngả. 
KẾT LUẬN
Chinh phụ ngâm khúc là một tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, là khúc ngâm của người chinh phụ, là lời than thở của một người phụ nữ có chồng ra chiến trường. Vấn đề trung tâm trong tác phẩm là mâu thuẫn giữa chiến tranh với cuộc sống con người, với hạnh phúc lứa đôi. Toàn bộ tác phẩm là sự bóc trần thực trạng đời sống, nhất là đời sống nội tâm tràn ngập đau buồn của chinh phụ.
 Đoàn Thị Điểm sáng tác và dịch thơ không nhiều, nhưng những tác phẩm của bà đều có giá trị cao. Đặc biệt, Chinh phụ ngâm khúc là một thành công rực rỡ về nội dung và hình thức nghệ thuật. Thi pháp của Chinh phụ ngâm khúc rất độc đáo, biểu hiện qua thi pháp tác giả, thi pháp thể loại ngâm khúc và thể thơ song thất lục bát, thi pháp nhân vật, thi pháp thời gian không gian, thi pháp cốt truyện và thi pháp đặc trưng nghệ thuật ngôn từ. Tác phẩm này đã đóng góp rất lớn cho nền văn học dân tộc nói chung và văn học trung đại nói riêng, nó đã mở đầu cho giai đoạn văn học nữa cuối thế kĩ XVIII nữa đầu thế kĩ XIX với những kiệt tác văn học về chất lượng lẫn số lượng.
Với những nét thi pháp độc đáo, Chinh phụ ngâm khúc đã góp phần đưa hình ảnh người phụ nữ bước qua được ngưỡng cửa của lễ giáo phong kiến đi vào thơ văn. Từ đó bày tỏ những ước mơ, khát vọng hạnh phúc trong tình yêu, hôn nhân và bộc lộ tinh thần phản chiến hết sức sâu sắc. Đoàn Thị Điểm không những làm cho tác phẩm dịch thơ trở nên nổi tiếng hơn nguyên tác mà còn góp phần làm cho dịch phẩm trở nên gần gũi, dễ hiểu, sinh động và lôi cuốn, là tiếng chuông thức tỉnh quyền sống, quyền tự do cá nhân và hạnh phúc của con người.

Bi kịch cá nhân trong Cánh Đồng Bất Tận- Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ chỉ mới xuất hiện trong thời gian gần đây, nhưng tác phẩm của chị đã có sức ảnh hưởng và đã gây tiếng vang trong nền văn học. Truyện của Nguyễn Ngọc Tư thật giản dị và đậm chất Nam Bộ. Mỗi truyện ngắn của chị là một bức tranh vẽ về cuộc đời, về thân phận con người trong cuộc sống. Có thể nói với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã trở thành một hiện tượng nổi bật trong đời sống văn học sau đổi mới, nhất là khoảng 10 năm đầu của thế kỷ XXI. Vừa ra mắt bạn đọc, lập tức nó trở thành đề tài nóng bỏng của nhiều cuộc bút chiến, của rất nhiều cuộc tranh luận với các ý kiến khác nhau. Song xét một cách toàn diện, Cánh đồng bất tận ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với nền văn xuôi đương đại. Đến với Cánh đồng bất tận độc giả bắt gặp nhiều mảnh đời cơ cực, lầm than, tảo tần sớm hôm mà vẫn không thoát khỏi cái nghèo. Và cũng chính cái nghèo luôn đeo bám dẫn đến những bi kịch đau thương .
Đọc Cánh đồng bất tận, độc giả không khỏi ngậm ngùi cho những số phận con người bị cái nghèo đeo bám. Cái nghèo là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những bi kịch không lối thoát. Gia đình nhân vật Út Vũ là một mô hình thu nhỏ cho những bi kịch của thế lực đồng tiền. Út vũ- là mẫu người đàn ông chất phát, làm lụng vất vả để chăm lo vợ con, với ý nghĩ giản đơn: “Chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng”. Ông chăm lo cho gia đình từ những việc nặng nhọc đến những việc vô cùng nhỏ nhặt: “Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn”. Từ chi tiết ấy thể hiện được tính cách của nhân vật này, một người luôn chăm chút cho tổ ấm. Thế nhưng, cuộc đời nó vốn dĩ không giản đơn như cái suy nghĩ của ông, hết lòng yêu thương, gánh hết sự nhọc nhằn chưa hẳn được đền đáp xứng đáng. Chính cái nghèo, cái thiếu thốn mà ông đã mất vợ. Người vợ của ông đã không vượt qua được cám dỗ của phù hoa. Ông đốt tất cả đồ đạc rồi bắt đầu một cuộc đời du mục, bi kịch của ông bắt đầu từ đó. Ông trở nên lạnh lùng, vô cảm và muốn trả thù với những người phụ nữ. Nuôi vịt chạy đồng là đời sống kinh tế của gia đình ông, thế nhưng khi bầy vịt bị chôn sống ông lại dững dưng. Bởi vì: “Với nổi đau sâu hoắm sẳn trong lòng, thì những biến cố khác chẳng qua là một vết xước ngoài da, nhằm nhò gì”. Không dừng lại ở thái độ thờ ơ, vô cảm, ông còn lạnh lùng và tàn nhẫn, muốn trả thù đời bằng việc đến với những người đàn bà gieo cho họ một tình cảm rồi rũ áo ra đi: “với những người đàn bà sau nầy, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc”. Ông dững dưng như không có chuyện gì: “Nhạt nhẽo hơn cả việc quan hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha tôi không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt ngập tràn những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng”. Trong con mắt Điền: “Cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái”, vô cảm và lạnh lùng, chẳng có tính người. Với ai ông cũng có một sự tính toán: Sương đến với Út Vũ tưởng rằng cuộc đời ông sẽ khác, sẽ trở về với hình ảnh một người cha ngày nào trong mắt của Điền và Nương. Thế nhưng sau cuộc ái ân ông lại trả tiền xòng phẳng: “Tôi trả cho hồi hôm…rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt”. Ông coi thường Sương là một con điếm, trong mắt ông việc quan hệ ái tình chỉ là việc bán mua chứ chẳng phải là cho và nhận. Sương vì bảo vệ cho cuộc sống gia đình ông mà đã hi sinh bản thân qua đêm cùng những tên cán bộ, đáp lại tấm chân tình ấy là một cái nhìn miệt thị: “sao, hồi tối vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? cứ để họ nghĩ vậy…”. Bi kịch đồng tiền đã đưa Út Vũ trở thành một con người khác, từ một người sống có lí tưởng, chăm chút gia đình bé nhỏ của mình trở thành một con người lạnh lùng, vô cảm. Và cái giá của ông phải trả cho bi kịch của cuộc đời mình là Điền đã ra đi không tin tức, những cuộc vui đùa ái ân của ông với những người phụ nữ được báo ứng bằng việc tận mắt chứng kiến cảnh tượng con gái mình bị cưỡng hiếp: “nó đè nghiến, giữ cho mặt ông hướng về phía tôi. Và bọn chúng thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ một tư thế đó, mắt cha tôi ầng ậc nước, tôi không hiểu là phèn hay máu nhoèn nhoẹt”. Trong hoàn cảnh đau thương ấy, người mà Nương cầu cứu không phải là ông, Nương gọi “Điền! Điền ơi!” . Còn gì đau đớn hơn khi từ lúc nào hình ảnh người cha không còn là chỗ dựa thiêng liêng cho con cái. Cái bi kịch của Út Vũ quá lớn, nó sinh ra từ những cám dỗ của thế lực đồng tiền.
Đồng tiền có sức mạnh vạn năng, nó tạo nên những bi kịch cho những ai quá khao khát nó mà thực hiện những hành vi trái với luân thường đạo lí. Vợ của Út Vũ là điển hình cho những bi kịch xuất phát từ sự cám dỗ của phù hoa. Chị ngao ngán và thở dài với cái nghèo: “Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết mai mốt cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo má ơi”. Chính đồng tiền làm chị thay đổi, chị đánh đổi những xấp vải bằng cuộc ái ân với người thương lái. Để rồi khi con mình phát hiện, chị tủi nhục và bỏ nhà ra đi. Chính chị là người tạo nên bi kịch của gia đình Út Vũ. Chị đã gieo rắc vào con mình những gì không đáng thấy, làm loang lỗ vết thương tinh thần cho những đứa bé đang lớn lên. Chị đã làm cho Út Vũ trở nên hoang dại và vô cảm, làm tan nát cả một gia đình tưởng chừng quá hạnh phúc này. Bi kịch của đồng tiền không tha thứ bất ai muốn có nó bằng những hành động không chân chính, đó còn là bi kịch của Sương. Vì kiếm tiền Sương sống bằng nghề buôn hương bán phấn: “Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài được một người đàn ông chơi trò giường chiếu, suốt hai ngày hai đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xóa đói giảm nghèo...”. Để rồi khi chị đến với Út Vũ, chị không thể nào xóa được vai trò là một “con đĩ” trong mắt ông. Chị mủi lòng khi ông sòng phẳng trả tiền sau cuộc ân ái, chị cay đắng: “mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ nầy còn chê chị. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương”. Chị cảm động trước tấm chân tình của chị em Nương: “Thật cảm động khi bị đánh tả tơi bầm dập vậy mà hai đứa nhỏ nầy lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng”. Dường như chị được trở về với một con người hướng thiện, muốn sống một cuộc đời thật trong sạch cùng với gia đình này, chị hy sinh để bảo vệ nguồn sống cho họ. Nhưng  dù chị có làm gì vẫn không rột rữa được hình hài một “con đĩ” trong mắt Út Vũ. Chị chua xót: “chị...làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mấy cưng buồn”. Chị rớt nước mắt trước sự lạnh lùng của Út Vũ rồi chọn cách ra đi. Cuộc đời của chị sẽ đi đâu? Về đâu? Khi người ta luôn nhìn chị với dáng hình một người không đứng đắn. Đó là bi kịch của con người vì tiền mà đánh mất danh dự của bản thân, để trả giá bằng cuộc đời luôn bị phỉ báng, xem thường.
Đọc Cánh đồng bất tận, chắc hẳn ai cũng không khỏi xót xa cho cuộc đời Điền và Nương, hai nhân vật là hệ quả của bi kịch từ sức mạnh đồng tiền mà những đấng sinh thành gây ra cho chúng. Người mẹ ra đi vì đồng tiền bỏ lại chúng khi còn quá nhỏ. Chúng ngỡ ngàng trước cuộc sống rồi phải mạnh mẽ để thích nghi như những đứa trẻ mồ côi không có mẹ. Với Điền kí ức về mẹ quá ít nó chẳng hiểu thương mẹ phải ra sao: “Người ta thương mẹ ra làm sao?. Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thát lát…mà nó dành cho chị cũng giống như người ta vẫn thường dành cho mẹ. và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dúi mũi mình vào da thịt người đó”. Còn với Nương: “tôi không dám nhớ tới má, bởi ngay khi nghĩ đến má, lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa đổi được”. Người mẹ ấy đã gây ra cho những đứa con mình một bi kịch của sự thiếu vắng tình thương, còn gì đau lòng hơn khi con không dám nhớ tới mẹ, kí ức dường như là một gì đó quá đau lòng với Nương. Đau lòng hơn khi càng lớn Nương càng giống mẹ, nó đã gieo lên nỗi nhớ má trong lòng Điền và nỗi hận thù trong lòng ba, tuổi của Nương đúng lẽ phải được học tập, vui đùa thế như với Nương công việc quá là khó khăn khi phải thay đổi chính mình: “Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài nầy. Tôi đành để cha đánh mắng để ông bớt đau chút lòng”. Mọi thứ dường như quá sức mà hằng ngày Nương phải cố gắng để thực hiện, Nương phải sống khác đi với chính mình để ba đươc vui. Có lúc sự thiếu thốn tình thương của hai đứa trẻ này mà độc giả không khỏi xót xa lòng: “phải chi ông nầy là ông nội mình, thương đỡ chơi hen Hai?. Nghe câu đó tôi bổng thấy mình nghèo rơi, nghèo rớt đến nỗi không có…ông nội để thương”. Chúng tập sống lạnh lùng và vô cảm để không bị những trận đòn roi, chẳng dám yêu thương ai vì sợ không nỡ chia lìa: “Sống đời mục đồng, chúng tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi ngậm ngùi, để lòng dững dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh khác”. Không có mẹ, cha lại lạnh lùng, chúng tự học tất cả, dù mỗi bài học đều có cái giá của nó. Để rồi như những cây hoang dại, chúng lớn lên bằng nghị lực: “Nhìn bướm bay, nhìn mây tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở tuyến kênh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán xem có thể cầm vịt ở đâu bao nhiêu lâu thì hết thức ăn, đúng chóc”. Thiếu vắng tình thương: “chị em tôi học cách yêu thương đàn vịt hy vọng sẽ không bị đau như yêu thương một con người nào đó. Nhiều khi nhìn thằng Điền dỏng tai coi mấy con vịt nói cái gì, tôi giật mình”.
Bi kịch thiếu vắng tình thương đã làm Điền trở thành một cây hoang, vươn mình đứng thẳng, nó đầy nghị lực. Thiếu vắng một vòng tay người mẹ để chăm chút, chỉ bảo khi đến tuổi trưởng thành: “Điền chối bỏ niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hãm bản băng trổi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm”. Và bi kịch hơn khi Nương nhận ra rằng: “tôi cảm giác sự đổ vỡ khi Điền theo đuổi chị, và chị thì chạy theo cha”. Khi Sương ra đi, Điền đã chạy theo để kiếm tìm, liệu rồi Điền sẽ đi về đâu với tuổi đời còn quá trẻ. Và rồi có phải chăng là những bi kịch lại ra đời. Với Nương bi kịch luôn đeo bám nhân vật này, vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám khóc. Thiếu vắng tình thương nó không biết phải xoay sở thế nào cho lần kinh nguyệt đầu tiên; “máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi thụp xuống, bụm chỗ ấy lại. máu chảy từ từ qua kẽ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt, chết dần”. cái kết của nhân vật này càng đáng thương hơn, bao nhiêu khổ hạnh trên cỏi đời mà đấng sinh thành gây ra Nương phải gánh chịu. Nương bị hãm hiếp trước mặt cha, thế nhưng bao nhiêu nghị lực mà Nương đã tạo ra cho mình không đánh nhân vật này gục ngã, Nương nghĩ đến việc đặt tên cho những đứa con nếu nàng có thai “đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường…đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Những câu nói ấy của Nương chính là niềm tin và nghị lực, Nương không muốn con mình sẽ sống đời mục đồng, nó sẽ có mẹ, nó sẽ được bù đắp những gì mà Nương thiếu thốn.

Với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã phác họa những bi kịch của con người với cái nghèo đeo bám. Mỗi nhân vật đều có một bi kịch riêng, nhưng điểm chung là trực tiếp và gián tiếp chịu sự ảnh hưởng của sức mạnh đồng tiền. Đọc tác phẩm, độc giả không khỏi bùi ngùi, xúc động. Nguyễn Ngọc Tư đã đưa lối khai thác mới cho đề tài quen thuộc, bi kịch của con người dưới ngòi bút của chị hiện lên với tất cả những gì khổ đau nhất. chị xứng đáng được xem là “hiện tượng” trong văn học sau đổi mới.