Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2013

Viên Mai bàn về thơ trong Tùy Viên Thi Thoại

Viên Mai (1716-1798), tự Tử Tài, hiệu Giản Trai, người đời thường gọi ông là Tùy Viên tiên sinh, người đất Tiền Đường, Triết Giang. Đỗ tiến sĩ vào năm Càn Long thứ 4 (1739), từng làm tri huyện nhiều năm. Năm Càn Long thứ 14 ông cáo bệnh từ quan về ở Tùy Viên tại Tiểu Thương Sơn, tỉnh Giang Ninh, ông làm minh chủ tao đàn trong những năm Càn Long, Gia Khánh. Lý luận thi ca của Viên Mai tiêu biểu cho xu hướng đổi mới của thi ca đời Thanh. Ông đề cao thuyết linh tính, nhấn mạnh tính tình cần chân thực, bút pháp cần linh hoạt, về tư tưởng thì không bị trói buộc bởi tư tưởng chính thống và quan niệm đạo đức phong kiến, về hình thức nghệ thuật cũng không bị hạn chế về cách luật cố hữu mà cổ vũ tự do sáng tạo, khuyến khích bộc lộ cá tính, tạo lập được phong cách riêng. Ông có sức ảnh hưởng lớn, có vị trí quan trọng trên thi đàn đời Thanh.
Thuyết tính linh xuất phát từ những điều kiện chủ quan trong sáng tác thi ca, nó nhấn mạnh ba yếu tố ba phương diện của chủ thể sáng tạo cần phải có là: chân tình, cá tính và thi tài. Cấu tứ trong sáng tác phải linh cảm, nghệ thuật biểu hiện phải mang tính riêng biệt độc đáo, tự nhiên; nội dung tác phẩm phải bộc lộ tình cảm chân thật, chủ yếu biểu hiện cá tính, hình tượng nghệ thuật ngụ tình phải linh họat, mới mẻ, sinh động; thi ca nên lấy sự cảm phát lòng người khiến người đọc cảm nhận được cái đẹp, tạo mỹ cảm làm chức năng chủ yếu. Ngược lại, ông phản đối quan niệm hình thức khéo léo làm trói buộc tính linh của “thi giáo” và tác phong bắt chước thời Đường Tống, ông cũng phản đối lối thơ lấy học vấn để thay thế tính linh, và dùng nhiều điển cố trong thơ, nhưng đồng thời ông không hề loại bỏ vấn đề học vấn và kỹ xảo trong sáng tác thi ca.
Viên Mai cho rằng, chân tình là điều kiện tiên quyết để thi nhân sáng tác. Vì thế ông phản đối việc “ngâm bừa” không có tình cảm chân thật. Viên Mai hấp thu được “thuyết đồng tâm” của Lý Chí – người làm thơ phải giữ được tấm lòng trong trắng, chân thực của trẻ thơ. Lý Chí cực lực phản đối, yêu cầu vứt bỏ cái tệ hại của cách nhìn đạo lí, tìm lại “cái bản tâm ban đầu”. Tư tưởng này phản ánh yêu cầu, nguyện vọng của giai tầng thị dân mới nổi lên bấy giờ, mở ra nhận thức của người ta đối với tình của nhân tính., tức Lý Chí muốn nhấn mạnh, nhà thơ phải có đủ những tình cảm thuần khiết, chân thật. Thi nhân phải có sự xúc động tình cảm mới có thể sản sinh ra những rung động trong sáng tác văn chương. Viên Mai phản đối việc xem thơ là công cụ chính trị, là “liên quan đến nhân luân thường ngày” (quan hệ nhân luân nhật dụng), liên quan đến “cương thường danh giáo” (cương thường danh giáo).
Thuyết tính linh đã xem trọng vấn đề tình cảm chân thật, tự nhiên cũng xem trọng vấn đề cá tính. Viên Mai luôn nhấn mạnh, nhà thơ phải có cá tính mới mẻ, nghệ thuật biểu hiện phải mang tính độc đáo sáng tạo. Đây là nội dung thứ hai của thuyết tính linh. Điều này chứng tỏ, Viên Mai chịu ảnh hưởng của cách nói “Độc trữ tính linh, bất câu cách tháo” (Tự Tiểu Tu thi) của Viên Trung Lang thời Minh. Viên Mai cho rằng “làm thơ không thể không có cái tôi” (tác thi bất khả dĩ vô ngã), “cái tôi” tức là cá tính; lại nói: “Phàm kẻ làm thơ ai có thân phận nấy, nên mỗi người có nỗi lòng, suy nghĩ riêng” (phàm tác thi giả các hữu thân phận, diệc các hữu tâm não), vì vậy thơ mỗi người có mỗi mặt khác nhau, nên sự biểu hiện cảm thụ và nhận thức thẩm mỹ cũng khác. Đồng thời, ông nhấn mạnh, cá tính của nhà thơ phải được tự do phát huy, mà không bị gò bó: “Tôi làm thơ vốn không thích dùng điệp, vần, họa vần hoặc dùng vần người xưa, vì cho rằng, làm thơ cốt tả tính tình, thích như thế nào thì làm như vậy, trong một vần có trăm ngàn chữ, mặc ý mình chọn dùng, thế mà có lúc dùng xong rồi còn không vưa ý mà phải thay đổi lại, thì sao lại được gò bó mà dùng trong một vài vần, đã gò bó thì không thể không nhồi nhét, đã nhồi nhét thì còn đâu nữa là tính tình”. Nhà thơ nên có cá tính, nghệ thuật biểu hiện nên có “cái tôi”, tức là có tính sáng tạo độc đáo.
Viên Mai cho rằng, ngoài chân tình và cá tính, nhà thơ cũng cần có điều kiện chủ quan là thi tài, không có tài thì khó biểu đạt tính linh, vì thế, thi tài là nhân tố thứ ba không thể thiếu trong thuyết tính linh. Ông nhấn mạnh, thi nhân muốn sáng tác phải có đủ tài năng đặc thù, vì thế nên mới có sự phân chia “bút tính linh” và “bút tính bổn”, người có “tính linh” hoặc có “linh tính” thì ắt có thi tài. Ông rất đề cao tài: “Tài năng, học vấn, kiến thức phải gồm đủ ba, mà tài thì ở hàng đầu”, có tài thì có thể “dùng điển tịch, vận tâm linh”. Viên Mai rất coi trọng nhân tố “thiên bẩm” của thi tài, nhân tố trời phú bẩm đương nhiên không thể mạt sát, nhưng hoàn toàn không phải là “chỉ dựa vào thiên bẩm”, mà điều kiện xã hội, sự nỗ lực trong tương lai cũng là điều rất quan trọng. Viên Mai không coi nhẹ việc học tập rèn luyện cho tương lai, ông cho rằng: “Thơ tuy kì vĩ mà không rèn luyện tinh tế thì cũng là tài thô kệch, thơ tuy cao cả mà không mở mang khai thác thì khuôn khổ cũng chật hẹp. Người có tài, khi phóng ra thì đầy sáu cõi khi thu lại thì trong gang tấc, gươm lớn sát trời, kim vàng thêu thùa chỉ là một vậy”.  Ông còn cho rằng: “Thơ tuy là một nghề mọn nhưng cũng phải học tập từ khi thơ ấu, bắt đầu học phải trên từ Hán, Ngụy, Lục triều, dưới đến Tam Đường, Lưỡng Tống tự nhiên nguồn dòng nắm được, mạch lạc phân minh”.
Viên Mai cho rằng, người có thi tài, trong quá trình cấu tứ sáng tác dễ sản sinh “linh cơ” và “cảm hứng”, tức là hiện tượng linh cảm. đối với linh cảm. Vấn đề cấu tứ trong sáng tác của nhà thơ nằm trong trạng thái lúc linh cảm chợt xảy đến, nên việc bộc lộ tính linh luôn tỏ ra như là một loại rất cần sự công phu nhưng “tự nhiên thiên thành” như “thiên lại”. Viên Mai đặc biệt suy tôn vẻ đẹp mang âm vận tự nhiên, như ngọc vốn có không cần mài giũa, “thiên lại bổn thiên nhiên, còn thơ của văn nhân thì có thể “có được từ sự khéo léo” nhưng cũng không nên để lộ giấu vết gọt giũa, phải uyển chuyển như tiếng sáo trời và đương nhiên phải có tính linh như đã nói ở trước. Người có tính linh, có thi tài thì thơ ắt có sinh khí, nghĩa là nhà thơ bằng sự cảm thụ chân thật để miêu tả những hình tượng nghệ thuật sinh động, linh hoạt, mới mẻ, trong đó lại ngụ ý ngụ tình và cá tính của nhà thơ nhờ đó mà khiến người đọc thấy thú vị vô cùng. Thi ca là nghệ thuật của ngôn từ, Viên Mai yêu cầu “Tất cả thơ văn, chữ chữ phải đứng ở trên trang giấy chứ không được nằm trên trang giấy”, và như vậy mới “sống” mới sinh động, truyền thần được. Đối với thủ pháp miêu tả thì ông tán thành lối “Nhất vị bạch miêu thần hoạt hiện” (miêu tả trong sáng hứng thú thì cái thần sống động) thì có thể biểu đạt “một mảng tình cảm linh diệu” (nhất phiến tính linh). Bởi do đề xướng chủ trương thơ phải có “sinh khí” nên đối với lối “nhồi nhét sách điển” (điền thư tắc điển) khiến cho tính tình “mất hết” tạo thành “trang giấy đầy mùi chết chóc” (mãn chỉ tử khí) ông cật lực phản đối, và cho rằng việc dùng điển cũng “không để lộ dấu vết” thì mới có sinh khí.
Viên Mai phê phán các thuyết “thần vận” của Vương Sĩ Chân, “cách điệu” của Thẩm Đức Tiềm, “cơ lý” của Ông Phương Cương. Viên Mai phê phán thói bắt chước, trộm cắp tiền nhân, khư khư giữ lấy những danh tiếng cũ cùng với những phép thanh điệu, phổ thức ngày xưa: “Đời nay vẫn còn khăng khăng ôm lấy sách Nhạc phủ giải đề, cho là một bản sách bí ẩn, rồi mô phỏng từng chữ từng câu, chẳng khác gì tự dưng vẽ ra ma quỷ chẳng có gì là bằng cứ, nhưng vẫn đặt lên đầu quyển để phô trương mặt mũi cũng ví như bọn người tự ý khoe khoang dòng dõi nêu lên những chức tước rất lớn của cha ông mình mà không biết rằng những cái không liên quan gì đến mình cả”.  Ông còn cho rằng: “Những kẻ bám lấy Hàn Dũ, Đổ Phủ để muốn hơn người nhưng chân tay thô dụng thì là loại ôm chân nhà quyền quý…” Nhà thơ nên dựa vào cá tính, cảm thụ thẩm mỹ, vận dụng cách cấu tứ nghệ thuật và thủ pháp biểu hiện đặc biệt của mình để tự do bộc lộ tính linh. Cá tính và sự sáng tạo trong nghệ thuật biểu hiện là nhân tố quan trọng hình thành nên phong cách của nhà thơ.
Ông phản đối tư tưởng cổ và nguyên tắc ôn nhu đôn hậu, đề cao sự đa dạng hóa đề tài, phong cách thơ ca. Ông phê phán Thẩm Đức Tiềm và cũng như phê phán chung quan niệm “sùng cổ ti kim” đang thịnh hành đương thời. Viên Mai còn đề cao những sáng tác “ngôn tình”, thể hiện quan điểm tiến bộ chống lại lễ giáo phong kiến, biểu thị quan niệm của mình khác với quan niệm tiết liệt phong kiến có tính chất áp bức phụ nữ của Nho giáo.

Điểm nổi bật trong lí luận về thơ của Viên Mai là thuyết tính linh, nội hàm thuyết tính linh của ông mang một loạt những nhân tố mỹ học về thi ca như chủ quan sáng tác của thi nhân, tính đặc sắc của hình tượng nghệ thuật và nội dung biểu hiện của thi ca, quy luật cấu tứ nghệ thuật, đặc điểm nghệ thuật biểu hiện và chức năng thẩm mỹ của thi ca, mà phương diện chủ yếu trong đó vẫn là phải phù hợp với thực tế sáng tác. Trong quan niệm về thơ ca ông còn phê phán các thuyết “thần vận”, “cách điệu”, “cơ lý”, phản đối tư tưởng cổ và nguyên tắc ôn nhu đôn hậu, từ đó ông đề cao sự đa dạng hóa về đề tài và tạo nên dấu ấn, phong cách riêng cho thơ ca.

Lưu Hiệp bàn về sáng tạo văn học trong Văn Tâm Điêu Long

Lưu Hiệp (466-532) tự Ngạn Hòa, người Đông Hoàn nước Lương, là người tinh thông Phật giáo, am hiểu Nho học, văn chương của ông lấy tư tưởng Nho gia làm cơ sở. Nếu nói đến trước tác có tầm cở, có ảnh hưởng lâu dài trong văn chương nhiều thời đại thì phải nói đến Văn tâm điêu long của ông. Đây là trước tác kết tinh của học vấn, trí tuệ và tâm huyết của Lưu Hiệp, là một kiệt tác vừa có giá trị cao về lí luận vừa có nhiều đặc sắc về văn chương. Có thể nói Văn tâm điêu long là tác phẩm lý luận văn học đầy đủ đầu tiên của lý luận văn học Trung Quốc. Tác phẩm dường như đề cập đến tất cả các vấn đề thuộc về văn học: từ nội dung và hình thức đến thể loại, phong cách, lịch sử phát triển….ông còn dành tâm lực để bàn về sáng tạo trong văn học. Các thiên tuy được viết ngắn gọn nhưng các vấn đề nêu ra đều được Lưu Hiệp cố gắng giải quyết thấu đáo và triệt để.Trong năm mươi thiên của tác phẩm, thì Thần tứ là thiên chuyên bàn về cấu tứ trong sáng tác, bàn đến vấn đề “trí tưởng tượng sáng tạo”.
Bàn về vấn đề sáng tạo trong văn học, theo quan điểm của nhà triết học Aristote trong Nghệ thuật và thơ ca thì vấn đề “hình dung cốt truyện” được hiểu thiên về khả năng tư duy của lý tính. Nhà thơ phải vận dụng những hiểu biết của mình để mở rộng trường liên tưởng, tưởng tượng trong khi xây dựng tác phẩm. Thành công của tác phẩm trước hết bắt nguồn từ mối quan hệ giữa “hình dung” và sự trải nghiệm tưởng tượng của nhà thơ, “hình dung” và cảm xúc, tài năng cá nhân, “hình dung” và sự xây dựng bố cục. Tư tưởng này của Aristote được các nhà lý luận văn học phương Tây khái quát thêm một bước nữa khi nói về trí tưởng tượng sáng tạo và cấu tứ của tác phẩm.
Ở phương Đông, Lục Cơ đời Tấn trong Văn Phú cũng đã đề cập đến vấn đề này. Ông viết: “Đầu tiên, thu cái nhìn lại không thấy gì nữa và bỏ tất cả ra ngoài tai, trầm tư suy nghĩ và tìm hình tượng trong tâm trí của mình, tinh thần rong ruổi nơi tám cõi, tâm hồn chơi vơi chốn nghìn trùng. Rồi thì, tình mờ mờ thành sáng tươi hơn; vật rực rỡ mà kéo nhau tới. Rót những giọt ngôn từ Chư tử quý giá; ngậm lấy ngụm nước Lục Kinh ngát hương. Thả mình trôi tới trời cao thẳm; tắm mình ngụp lặn chốn suối khe. Lúc ấy, từ chìm buồn vui mất, như thể cá mắc câu mà rời khỏi vực; văn chương nối nhau bay ra tựa chim trúng tên rơi xuống từ tầng mây thẳm; trong chớp mắt có thể quán thông kim cổ, trong phút giây có thể bốn biển rong chơi”. Lục Cơ nhìn vấn đề cấu tứ thật đơn giản. Tất cả bắt đầu từ ý thức tìm tứ của nhà văn. Để tìm tứ, nhà văn phải diệt trừ mọi phiền nhiễu bên ngoài, tập trung tư tưởng vào những sự vật đã quen thuộc, để trí tưởng tượng tự do bay bổng. Mọi sự vật trước còn mông lung, nhưng khi tứ kéo tới thì dần trở nên rõ ràng, sáng sủa. Tứ sẽ giúp nhà văn tìm từ để diễn đạt. Nói tóm lại, cấu tứ của nhà văn nằm trong mối quan hệ của ý và vật, ý và văn. Đến Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, cấu tứ được xem xét ở nhiều góc độ quan hệ khác nhau. Ngoài mối quan hệ “thần” – vật, “thần” – ngôn ngữ phát triển từ Lục Cơ, thiên Thần tứ còn đặt cấu tứ, tưởng tượng sáng tạo trong mối quan hệ với tài năng, cảm xúc của nhà văn. Quan niệm của Lưu Hiệp về vấn đề cấu tứ, tưởng tượng sáng tạo đã gặp gỡ với quan niệm của Aristote. Tuy nhiên, những khái niệm phương Đông mà Lưu Hiệp sử dụng để trình bày khiến cho vấn đề lý luận của ông không dừng lại ở phạm vi tư duy lý tính.
Mở đầu chương Thần tứ Lưu Hiệp viết: “Người xưa nói: “Hình tại nơi sông biển, tâm tại nơi cửa khuyết. Đó là nói về thần tứ vậy. Khi cấu tứ văn chương, cái thần (tức trí tưởng tượng) bay đi rất xa. Bởi vậy, lúc lặng lẽ tập trung suy nghĩ, dòng tư duy có thể tiếp xúc tận ngàn năm, khi đổi thay nét mặt ngắm nhìn, thì ánh mắt như thấy được vạn dặm. Ngâm vịnh lên, âm thanh như nhả ngọc phun châu, tưởng tượng nhìn trước mắt như sắc màu mây gió”. Theo Lưu Hiệp, khi tâm hồn đạt đến sự nhập thần, đạt đến trạng thái “không” như quan niệm của Phật, Lão thì cũng là lúc tuệ nhãn được khai thông. Trí tưởng tượng của nhà văn sẽ vượt qua những trở ngại về không gian, thời gian, có thể tương giao được với ngàn xưa, thông tiếp với ngàn sau. Mọi sự vật, sự biến hóa kỳ ảo của giới tự nhiên dường như hiển hiện trước mắt. Khi ấy, ý, tứ sẽ ùa đến một cách tự nhiên. Chính sự tưởng tượng tạo ra sáng tạo trong văn học, Lưu Hiệp cho rằng: “Toàn tưởng tượng thì dễ hay dễ lạ, song ngôn từ phải thực thì lại khó héo khó tươi. Bởi thế nên ý nảy sinh từ ý tứ, lời nảy sinh từ ý, chặt chẽ thì khít khao vô cùng mà sơ lậu thì tản xa đến ngàn dặm”.
Lưu Hiệp luôn ý thức về mối quan hệ giữa thế giới tinh thần của nhà văn và sự vật khách quan. Khi tiến hành cấu tứ, khi nhà văn ý thức đưa mình vào thế giới của tưởng tượng thì lĩnh vực hoạt động tư duy thật vô cùng to lớn. Không gian được mở rộng vô biên, thời gian được nối dài vô hạn. Nhưng thế giới tinh thần của nhà văn và sự vật khách quan vẫn kết hợp làm một; hoạt động tư duy của nhà văn trước sau vẫn liên hệ chặt chẽ với những sự vật cụ thể. Tách  khỏi “vật” thì “thần” không có chỗ dựa, việc tưởng tượng, hư cấu cũng không có cách nào tiến hành được. Đây là một đặc điểm nổi bật của tư duy hình tượng. Quan niệm này của Lưu Hiệp không khác quan niệm duy vật của phương Tây cổ và hiện đại. Lý luận phương Tây từ xưa đến nay đều khẳng định nguồn gốc của văn nghệ là hiện thực khách quan, ý thức văn học của nhà văn được xây dựng trên cơ sở hiện thực cuộc sống của nhà văn. Hiện thực khách quan và ý thức văn học của nhà văn luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Vốn sống ấy được tích lũy qua sự trải nghiệm, qua những chiêm nghiệm trong cuộc đời và cả bằng sự thu nhặt từ sách vở thánh hiền. Mặt khác, nhà văn cũng cần phải nắm bắt được toàn bộ những tồn tại khách quan bên ngoài mình, sống sâu sắc với nó. Đó là những tiền đề để tứ thơ nảy sinh.
Theo quan điểm của Lưu Hiệp, nhà văn phải nuôi dưỡng cái tâm. Để có được điều đó nhà văn phải “sơ thuộc ngũ tạng, tảo tuyết tinh thần” làm cho tâm nhẹ lâng lâng và có thể bừng sáng trong trí tuệ. Nhà văn phải học tập, nghiên cứu, tích lũy tri thức. Văn có nguồn gốc từ đạo, phải lấy thánh nhân làm khuôn mẫu, hình thể, phải nương tựa vào Lục kinh, châm chước thêm bằng các chi lưu của kinh, biến hóa theo phong cách của Ly Tao. Ngoài ra, để có thể phát huy tài năng, nhà văn cần có sự hiểu biết không chỉ thông kim bác cổ mà còn “thượng tri thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự”. Có như thế trí tưởng tượng mới có thể bay cao, bay xa, văn chương mới sáng tạo phong phú. Nhà văn còn phải nghiền ngẫm lại những điều mình đã trải qua, rút kinh nghiệm từ những người đi trước để tiếp thu nguồn sáng trí tuệ. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo thì đây là giai đoạn “trực chỉ nhân tâm” để có thể đột khởi những ánh sáng kì ảo trong tâm tưởng. Và nhà văn phải luôn biết dựa vào kinh điển để trau dồi lời văn cho thích hợp. Nhưng để lĩnh hội được những thâm ý sâu xa trong kinh điển của cổ nhân người đọc cần phải để tâm “hư tĩnh”, phải quên mình trước những trang sách. Có được tất cả những điều trên thì khi thả mình vào tưởng tượng nhà văn sẽ nhanh chóng tìm ra tứ thơ. Khi tứ thơ đến cũng đồng thời là lúc ngôn từ kéo về. Từ đó tạo nên tính sáng tạo độc đáo trong văn học.
Bàn về nghệ thuật viết văn, Lưu Hiệp đề cao tính giản dị - giản dị từ cách dùng từ đến việc tìm ý tưởng. Ông cho rằng lời lẽ bình dị cũng có thể chứa đựng những ý nghĩa thâm thúy, những điều đơn giản tầm thường cũng có thể làm nảy sinh những tư tưởng mới lạ, độc đáo. Ngay ở tư tưởng này Lưu Hiệp đã thể hiện mình là một người sống sâu sắc với cuộc sống và nhiều trăn trở với nghiệp văn chương. Văn không phải là cái gì cao xa, vượt tầm với của con người.
Ông cho rằng: “Nếu học cạn mà cứ uổng công kéo dài, tài sơ mà cứ uổng công viết vội, như vậy mà ra được thành phẩm tốt thì xưa nay chưa từng nghe. Bởi vậy khi nghiền ngẫm để tìm văn tứ thường có hai điều khó: suy tư tắc thì ý nghèo nàn, ngôn từ nhiều thì văn tạp loạn. Thế nhưng, kiến thức rộng sẽ thành lúa gạo cứu được cái nghèo, định hướng nhất quán sẽ thành phương thuốc trị được cái loạn”. Theo Lưu Hiệp, nhà văn cũng phải biết dừng bút đúng lúc nếu cảm thấy lời văn của mình không theo kịp những ý nghĩa thâm diệu, những cái đẹp tinh tế. Nếu cứ cuốn mình theo nó nhà văn sẽ cảm thấy bất lực, và đôi khi làm giảm giá trị của tác phẩm. Chỉ có thiên tài mới có thể phô diễn được những điều tuyệt diệu, và những bậc tuấn tài phi phàm mới có thể thông suốt được những điều tinh mật. Điều này hoàn toàn thống nhất trong tư tưởng của nhà nghiên cứu này, bởi ông luôn đề cao sự sáng tạo cá nhân.
Với thiên Thần tứ, Lưu Hiệp đã đặt ra vấn đề về trí tưởng tượng và sáng tạo trong văn học. Những quan điểm của ông rất xác đáng và đóng góp quan trọng cho văn học. Có thể nói Văn tâm điêu long là một trước tác đầy đủ về lí luận văn học phương Đông sớm nhất, có địa vị quan trọng và giá trị bất hủ trong lịch sử văn hóa không chỉ riêng của Trung Quốc mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia khác trong đó có Việt Nam.

Vấn đề con người trong Mùa Lạc - Nguyễn Khải

“Văn học là nhân học” (M. Gorky), xét cho cùng cái đích đến của nhà văn trong mọi tác phẩm văn chương chính là con người. Con người với tất cả đời sống tự nhiên, đời sống xã hội, thân phận và cuộc đời chính là đối tượng và cũng là nội dung đặc trưng cơ bản nhất của văn học. Vấn đề con người là một vấn đề trung tâm của văn học. Tác phẩm có thể không có nhân vật người, nhưng nó phải là câu chuyện về cõi nhân sinh. Quan niệm nghệ thuật về con người ở các nhà văn thường không giống nhau, nhưng trong từng giai đoạn văn học nó có điểm tương đồng, đánh dấu trình độ chiếm lĩnh con người của từng thời kì. Giai đoạn 1954-1964 đánh dấu cột mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc, giải phóng miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa và tiếp tục đấu tranh thống nhất cả nước. Đề tài và chủ đề trong văn học được mở rộng. Nét đặc trưng cơ bản trong quan niệm con người của văn học giai đoạn này là con người trong sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung. Điều đó được cụ thể hóa qua truyện ngắn Mùa Lạc của Nguyễn Khải.
Viết Mùa lạc, mặc dù tác phẩm có tính thời sự, nhưng Nguyễn Khải không làm công việc minh họa giản đơn những chủ trương chính sách của nhà nước mà nhà văn đi sâu vào việc phản ánh những số phận con người, nhất là những con người bất hạnh nhỏ bé. Những con người ấy biết vươn lên để tự đổi đời trong một môi trường lao động tập thể, trong sự đổi đời chung của đất nước, dân tộc. Từ tiêu chí đó, Nguyễn Khải đã bày tỏ một quan niệm, một niềm tin vào cuộc sống, nếu con người biết thương yêu nhau chân thành, cùng nhau vượt qua những khó khăn gian khổ, họ sẽ được hạnh phúc, kể cả những ai đã trải qua những năm dài bất hạnh. Nhân vật chính của truyện là Đào với số phận nghiệt ngã và những nét tính cách rất đáng chú ý đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Thông thường, nhân vật chính nếu là nữ, phần nhiều là những cô gái đẹp vì cái đẹp dễ gây xúc cảm và thương cảm cho người đọc. Nhưng nhân vật Đào của Nguyễn Khải không thuộc mẫu người đó, dường như tác giả muốn thể hiện nhân vật của mình còn bất hạnh cả trong hình thức. Đào là một phụ nữ xấu về dáng vẻ, ít duyên phải chịu cảnh quá lứa lỡ thì: “hai con mắt hẹp và dài…gò má cao đầy tàn hương, những nét thiếu hòa hợp trên khuôn mặt càng làm trở nên thô, càng đỏng đảnh”, “cặp chân ngắn, hai bàn tay có những ngón rất to”. Nhưng bù vào thua thiệt hình thức, lời ăn tiếng nói của Đào biểu hiện một con người có bản lĩnh. Đào thuộc nhiều ca dao, tục ngữ và vận dụng rất tài vào cách ăn nói thường ngày. Có lúc cười cợt mà thực “trâu quá xa mạ quá thì, hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân”, có lúc chua ngoa “Huệ thơm bán một đồng mười, Huệ tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng”.
Con người ấy, trong quá khứ riêng tư, lại chịu một số phận hẩm hiu, bất hạnh. Đào lớn lên trong một gia đình phải vất vả kiếm sống, có chồng nhưng cũng như không, chồng nợ nần cờ bạc, bỏ nhà đi rồi ốm chết. Có được một mụn con, tưởng rằng là niềm an ủi, nhưng quá cơ cực, đứa con sinh bệnh tật rồi cũng bỏ chị.  Từ đó, Đào phải sống lang bạt nhiều nơi để kiếm sống một cách vất vả “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”, tuổi trẻ tàn phai theo năm tháng. Đào ước mơ có được một gia đình nho nhỏ như bao nhiêu người khác: “Cũng có lúc ốm đau, nằm nhờ nhà người quen, bưng bát cơm nóng nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ trước đây mình cũng có một gia đình, một đứa con sớm lo việc sớm, tối lo việc tối”. Quen với cái khổ, Đào chỉ nghĩ cuộc đời mình “do số kiếp đã định thể”. Đào không hy vọng gì về một sự đổi thay, “muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống”.
Đào lên tới Điện Biên rồi ở lại đó với một tâm trạng mỏi mệt, muốn “quên đi những ngày đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao thì không cần rõ” và có lẽ sự bất cần ấy mà Đào sốn “táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người và hờn giận cho bản thân mình”. Dù thường đanh đá chua ngoa, khó chịu, luôn có ý chọc tức người khác, nhưng trong thâm tâm, Đào vẫn khao khát một cuộc sống có tình yêu, có hạnh phúc. Được làm việc gần Huân, một thanh niên trẻ, đẹp trai, đầy sức sống. Đào không dám nghĩ đến chuyện yêu Huân, nhưng “nhìn đôi tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng đỏ rực của Huân thoang thoảng bên cạnh, chị lại bừng bừng thèm muốn một cái gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời mình chưa phải là tắc hẳn”. Bởi những bất hạnh của bản thân đã khiến con người Đào có hai mặt trái ngược: vừa có ý thức về mình, khao khát hạnh phúc nhưng lại đầy mặc cảm về thân phận, không hy vọng gì ở ngày mai.
Được tựa mình trong một hoàn cảnh mới, trong một môi trường lành mạnh là nông trường Điện Biên, giữa những con người giàu tình ái và lòng tin ở con người Đào có niềm vui trở lại. Đào tràn trề hy vọng và dự tính cho tương lai khi Dịu, anh trung đội trưởng góa vợ, ngỏ lời cầu hôn với mình. Tác giả tìm cho Đào một người yêu phù hợp, đã đem đến cho Đào một hạnh phúc mà tưởng chừng như không bao giờ Đào có được. Đoạn văn thể hiện thái độ của Đào khi nhận thư Dịu là một đoạn hay, phân tích tâm lý sắc sảo, thực sự có giá trị nghệ thuật. Đầu tiên Đào tức giận, mới gặp có mấy bận mà “ông trung đội trưởng già” ấy dám ngỏ lời táo bạo vậy sao? “đọc được mười dòng chị giận dữ tưởng như có thể xé vụn từng mảnh được, người ta coi thường chị đến thế ư”. Nhưng lạ lùng thay, chỉ phúc chốc sau đó, “khi gập lá thư lại thì một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra như mạch nứơc ngọt rĩ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ dạt dào không thể nén lại nỗi khiến người chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng, nhưng trong mi mắt lại mọng đầy nước chỉ định trào ra”. Hạnh phúc lớn quá, Đào không ngờ được, sung sướng đến chảy nước mắt vì vẫn có người quan tâm, thương yêu đến mình. Bức thư của Dịu đã “thức tỉnh nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén” từ lâu. Trong tâm trạng yêu thương xao xuyến ấy, Đào nghĩ về tương lai rất thực, rất quí giá và thân ái. “Chị hình dung ra cách đối đãi của đứa con riêng của người rồi đây sẽ gọi là chồng”, “mình quí nó, tất nó quí mình”.
Chính vì tình yêu ấy đã làm cho Đào thay đổi, dịu dàng sâu lắng và chan hòa với mọi người hơn. Đào đã tìm thấy một cách sống tốt và một niềm hạnh phúc chân chính. Đào ở lại Điện Biên theo tiếng gọi cuộc sống và tình yêu “Em nghĩ mãi rồi anh ạ, em định không về dưới xuôi nữa, em ở lại đây mãi với các anh”.

Với tác phẩm Mùa lạc, nhà văn Nguyễn Khải đã đặt ra được nhiều vấn đề cuộc sống và cũng đã bày tỏ quan niệm của mình theo hướng tích cực: giải pháp để giải quyết số phận cá nhân và khát vọng hạnh phúc của con người là ở sự hòa nhập với tập thể và cuộc sống mới đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển hóa của con người đi từ cái tôi riêng lẽ, cô đơn hòa vào cuộc sống chung. Môi trường tập thể đóng vai trò quan trọng chủ động đón nhận và cảm hóa, nâng đỡ những con người riêng lẻ, cô đơn, giúp cho họ tìm thấy niềm vui, hạnh phúc. Cùng với sự vươn lên trong cuộc đời của nhân vật Đào ta có thể thấy được ý nghĩa triết lý của tác phẩm dù có nghiệt ngã đến đâu, con người cũng không chịu khuất phục trước hoàn cảnh: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy...”.